Đề bài: Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm sáng tỏ bài văn là Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang
Văn mẫu chứng minh nhận định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm sáng tỏ bài văn là Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang
Bài làm:
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, chúng ta từng bắt gặp hình ảnh người nông dân với tâm thế trang trọng qua bài “Đại cáo bìn`h Ngô”: “Yên can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập” (dựng gậy làm cờ, manh (người dân cày lưu tán), lệ (người tôi tớ đi ở) bốn phương hội tụ). Trong câu thơ, tác giả Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người dân cày trong cuộc chiến chống ngoại xâm để đề cao tư tưởng thân dân. Cho đến khi “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu xuất hiện thì hình tượng về người nông dân nghĩa sĩ mới được khắc họa một cách hoàn chỉnh. Qua tác phẩm này, chúng ta thấy được bức tượng đài bi tráng và bất tử của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
Ngay từ phần mở đầu, bối cảnh thời đại và ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân đã được nêu bật và khẳng định: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Chỉ với tám chữ ngắn gọn, tác giả đã tái hiện thành công một thời đại bị tráng và khổ nhục bởi sự xâm lược của ngoại bang, nhưng đồng thời cũng rất hùng tráng và vĩ đại bởi tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân; gợi lên không khí khẩn trương, sôi sục. Trong bối cảnh đó, người nông dân hiện lên qua sự đối lập tương phản giữa cuộc sống “mười năm công vỡ ruộng” hằng ngày và hành động “một trận nghĩa đánh Tây”, làm nổi bật ý nghĩa thiêng liêng, vĩnh hằng.
Ở phần tiếp theo, tác giả đã tái hiện chân thực hình tượng người nông dân nghĩa sĩ thông qua việc hồi tưởng công lao và đức hạnh của họ. Trước khi tham gia vào trận chiến, họ chỉ là những con người lao động bình thường, giản dị và chất phác, quanh năm lam lũ,cơ cực với hành trình: “Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, ngày ngày “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” và hoàn toàn xa lạ, lạ lẫm với công việc binh đao: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Phải chăng vì quá gắn bó với cánh đồng mênh mông, với quê hương thân thuộc nên trong họ luôn sục sôi lòng căm thù đối với bè lũ cướp nước. Khi nghe tin bước chân quân giặc xâm phạm bờ cõi, người nông dân sẵn sàng và tự giác đứng lên vì nghĩa lớn: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Với tinh thần hăng hái, tự nguyện đó, người nông dân áo vải đã xông pha trận mạc, vụt đứng lên trở thành những anh hùng với tư thế hiên ngang, lẫm liệt trong “trận nghĩa đánh Tây”. Chỉ với manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… vô cùng thô sơ, nhưng bằng tinh thần chiến đấu sục sôi và quyết liệt, họ đã lao vào quân giặc với hành động mạnh mẽ: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Tác giả đã sử dụng bút pháp hiện thực để miêu tả bức chân dung của người nông dân nghĩa sĩ từ dáng vẻ bề ngoài đến cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày. Bên cạnh đó, bút pháp tương phản đối lập cũng được vận dụng một cách linh hoạt để khắc họa vẻ đẹp bi tráng họ.
Đến phần “Ai vãn”, tiếng khóc đau thương và cao cả trước sự hi sinh của những người anh hùng áo vải vang lên. Đó là tiếng khóc thương của những người đứng tế, là sự đau xót của những người mẹ mất con, những người vợ mất chồng,… Nhưng những tiếng khóc đó hiện lên bi thương chứ không hề bi lụy; bởi lẽ tiếng khóc đó không chỉ thể hiện nỗi xót thương mà còn mang trong mình ý nghĩa khích lệ lòng căm thù giặc cùng ý chí tiếp nối sự nghiệp chống lại giặc ngoại xâm còn dang dở. Với nhịp điệu trầm lắng, có lúc được kéo xuống như một lời than vãn, những câu văn của cụ Đồ Chiểu đã thể hiện tiếng khóc đau thương nhưng không hề bi lụy trước bức tượng đài của người nông dân nghĩa sĩ. Mặc dù họ đã hi sinh nơi sa trường nhưng tinh thần bất khuất, hành động kiên cường của họ vẫn sống mãi cùng non sông đất nước.
Và cuối cùng, ở phần “Kết” của bài văn tế, sự hi sinh cao đẹp và linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ đã được tác giả ngợi ca và nhấn mạnh. Với câu văn ngắn gọn được kiến tạo theo biện pháp đối lập “Một trận khói tan/ nghìn năm tiết rỡ”, hình tượng người anh hùng đã được tái hiện qua sự ngời sáng của phạm trù nhân cách “tiết rỡ” trong phạm trù thời gian “nghìn năm” vươn tới cái muôn đời, làm nên ý niệm sâu xa của sự bất tử. Như vậy, qua tác phẩm này, chúng ta có thể thấy đối với người nông dân nghĩa sĩ, chết không có nghĩa la hết là sự nối tiếp của sự nghiệp bảo vệ dân tộc hết sức thiêng liêng và cao cả bằng “linh hồn theo giúp cơ binh”, “thác cũng đánh giặc”, “thác cũng thờ vua”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi từng đánh giá: “Không nghi ngờ gì nữa, hình ảnh người nông dân trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu là một phát hiện mới mẻ và có giá trị. Đó là con người có từ lâu đời, nhưng cũng chỉ thật nổi bật lên vào giai đoạn lịch sử này, khi mà người anh hùng phong kiến đang tự nó rút khỏi vũ đài lịch sử. Dưới ngòi bút của Đồ Chiểu, đó là những con người “rất xưa nhưng cũng rất mới”. Ý kiến trên đã thể hiện rõ ý nghĩa của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” trong việc tái hiện, khắc họa và xây dựng bức tượng đài về người nông dân nghĩa sĩ. Bằng việc xây dựng tác phẩm theo kết cấu điển hình của bài văn tế theo thể phú Đường luật, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang, bất tử, bi tráng và không hê bi lụy.
————— Hết ————–
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm nổi bật trong chương trình Ngữ văn lớp 11 của Nguyễn Đình Chiểu. Bên cạnh bài làm văn Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để làm sáng tỏ bài văn là Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang, các em có thể tìm hiểu thêm các bài làm văn khác như Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Tóm tắt bài Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc hay cả phần Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)