Giáo dục

Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

Đề bài: Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

phan tich bai tho the non nuoc cua tan da

This post: Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

 

Bài mẫu: Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

Nếu có ai hỏi rằng liệu ai là người đặc biệt nhất trên thi đàn văn học Việt Nam thì có lẽ chúng ta có thể nói ngay được rằng đó là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Ông đặc biệt bởi lối thơ văn với phong cách sử dụng ngôn ngữ biến hóa linh hoạt, vô cùng tài tình. Cùng với đó, ông cũng được coi là “dấu gạch nối giữa hai nền văn học”. Sinh thời, sự nghiệp của ông vô cùng đồ sộ với những “Khối tình con I, II”, với những ” Đàn bà Tàu”, “Lên tám”, … nhưng có lẽ tiêu biểu nhất trong các tác phẩm của ông là bài “Thề non nước”. Bài thơ này Tản Đà gửi gắm trong đó biết bao nhiêu điều thầm kín qua những hình ảnh thơ vô cùng gần gũi.

Bài thơ “Thề non nước” được viết lên trong hoàn cảnh khi cô đào Anh Tử cùng một du tử ngồi uống rượu, chuyện trò cùng nhau và cùng nhau nối thơ vịnh về một bức tranh sơn thủy có ba chữ triện Nôm “Thề non nước”. Bức tranh kia vốn chỉ họa một dãy núi mà không hề có “thủy” – nước mà chỉ thấy xuất hiện dưới chân núi một ngàn dâu xanh biếc. Chỉ qua câu chuyện đó, Tản Đà đã mượn lời để viết nên “Thề non nước” ca ngợi mối tình son sắt của trai gái, lứa đôi yêu nhau và hơn nữa giấu kín trong những vần thơ là cả một tình yêu đất nước thiết tha sâu nặng.

Đọc những dòng thơ đầu tiên của bài thơ, người đọc như được bước vào một không cảnh vô cùng buồn bã, sầu thương, khi lời thơ được cất lên đã nhuốm cảnh chia ly đôi đường:

“Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi, không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại, non còn đứng không?”

Hiện lên ở đây là hình ảnh của một cuộc chia ly mang đầy sắc thái buồn bã. Cuộc chia ly của nước và non khi đã cùng nhau hẹn thề “một lời thề”. Vậy mà, “nước đi đi mãi, không về cùng non”. Cả khổ thơ dường chỉ diễn đạt một nỗi buồn thương sâu sắc đến vô tận của đôi lứa khi chia xa. Người xưa thường ví những lời hứa của những đôi lứa yêu nhau là “thề non hẹn biển” thì ở đây, Tản Đà lại hình tượng hóa hơn, cụ thể hóa hơn khi dùng chính hình ảnh của non nước để ẩn dụ cho đôi lứa yêu nhau. Người xưa dùng non và biển như hai cá thể độc lập tách biệt thì ở trong thơ của Tản Đà, “biển” được thay bằng nước. Không còn là hai hình ảnh xa rời, tách biệt nhau, không còn là hình ảnh chỉ mang tính chất so sánh, “nước”, “non” ở thơ của Tản Đà lại gắn bó, kết dính lại với nhau, trở thành một đôi đi liền kề cùng nhau. Trong câu thề nguyền “thề non hẹn biển”, “non” và “biển” chỉ là đối tượng dùng để so sánh, để biểu đạt ý cho con người thì trong thơ của Tản Đà, chính “non” với “nước” lại chính là những vật thề nguyện cùng nhau.

“Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi, không về cùng non”

Nước và non đã nặng lòng với nhau, trao nhau lời ước hẹn sâu nặng, nhưng “nước” lại một mình ra đi, dường như không trở về cùng “non” kia. Câu thơ như một câu hỏi nặng trĩu nỗi tâm tình. Đọc câu thơ, người đọc không khỏi liên tưởng tới hình ảnh những người chinh phu, chinh phụ, những người giai nhân cùng tình lang và cuộc chia ly của họ. Khi mà người chinh phu, người tình lang (nước) ra đi, chỉ còn người chinh phụ, giai nhân (non) ở lại trông ngóng đợi chờ, cùng biết bao nỗi nhớ nhung mong đợi của người vợ chờ chồng trở về. Nước và non tưởng chừng như là một thể thống nhất, không gì có thể chia cắt được chúng, vậy mà ở đây nước và non lại bị chia cắt, tách biệt khỏi nhau. Nếu như nước và non trong câu thơ đầu được tác giả xếp lại gần kề nhau như lời nguyện thề son sắt, thì ở đây, nước và non lại bị tách ra, một đứng đầu, một đứng cuối. Đây chẳng phải là dụng ý nghệ thuật của tác giả về sự chia ly đôi ngả của nước và non hay sao? Nước ra đi, đó là một quy luật khách quan, tất yếu của cuộc sống, của quy luật vận động. Chỉ còn “non” ở lại trông chờ. Điệp từ “đi” được tác giả sử dụng lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ, đọc lên, ta có cảm tưởng một thứ gì đó xa xôi, cách trở, lại vô cùng day dứt khôn nguôi. Lời “nguyện nước thề non” kia tưởng như còn đang vang vọng, tha thiết nhường nào, vậy mà “non – nước” đã chia xa, cách trở. Nước ra đi vì quy luật tất yếu, liệu non kia có “còn đứng không”. Lại một câu hỏi nữa, nhưng lần này là câu hỏi mang đầy sự băn khoăn của nước, liệu rằng khi nước chưa trở lại, non kia có còn đứng ở đó chờ trông nước hay không? Ở đây, Tản Đà thật khéo léo khi sắp đặt vị trí cáctừ ngữ trong từng câu thơ. Chúng ta có thể nhận ra, chỉ ở một câu thơ đầu tiên, khi nước và non cùng nhau trao lời thề, nước và non được đặt cạnh nhau song hành. Tiếp theo những câu thơ còn lại, nước non đều đứng cách nhau, khi thì đầu – cuối, khi thì lại cách nhau bởi một chữ, tạo nên một khoảng cách xa xôi trong cuộc chia ly của nước và non. Chỉ đơn giản vậy thôi, chúng ta đã cảm nhận được cái tài tình trong cách sử dụng ngôn ngữ của Tản Đà.

Mượn hai hình ảnh vô cùng quên thuộc “non”, “nước”, Tản Đà đã ẩn dụ ở trong đó là hình ảnh của con người, mà cụ thể ở đây là những người vợ – người chồng, những người tình nhân khi xa nhau. Họ đã cùng nhau trao nhau lời thề nguyền “thề non hẹn biển” nhưng phu quân, người tình của họ ra đi liệu có trở về hay không và người vợ, người giai nhân có còn đứng ở nơi hẹn thề chờ đợi người trở về hay không?

Không còn hình ảnh đứng cạnh song hành cùng nhau nữa, nước non bây giờ đã chia ly, đã trở thành hai thế giới cách biệt. Vẫn gợi ra từ hình ảnh từ sự chia ly của hai thế giới tách biệt ấy, ở những câu thơ tiếp theo, non và nước lại trở nên rõ ràng hơn, cụ thể hơn:

“Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắng hao gầy
Tóc mây một mái đã đây tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha”

Giờ đây, không còn hình ảnh chung, mờ ảo như trước, hiện lên ở đây là hình ảnh của người con gái với những hình ảnh đầy tính ước lệ “xương mai”, “tóc mây”, “vẻ ngọc”, “nét vàng”. Người con gái ở đây hiện lên qua hình ảnh ẩn dụ “non” hiện lên với một vẻ đẹp đầy hoàn mỹ nhưng lại sầu thương và buồn tủi đến vô cùng. Đọc những câu thơ mà người đọc như cảm thấy nỗi buồn sâu lắng của cuộc chia ly đã thấm đẫm trong từng câu từng chữ. Tản Đà đã sử dụng hình ảnh ước lệ để đặc tả người con gái và cũng sử dụng nghệ thuật ấy để đặc tả nỗi buồn cô đơn của nàng. Nếu như Nguyễn Du đặc tả tâm trạng Thúy Kiều với những:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu

thì ở đây Tản Đà lại gợi lên một nỗi buồn, cô đơn tương tư đẹp không kém những câu Kiều của Nguyễn Du. Thế nhưng đối lập với những hình ảnh đẹp mĩ lệ, tuyệt sắc ấy là một nỗi buồn, bi kịch trong tình yêu của cô gái. Nàng giai nhân ấy trong thơ Tản Đà đã “những ngóng cùng trông” người tình lang, người chồng của mình trở về. Trong nỗi buồn thương, cô đơn ấy, nàng đã khóc biết bao tháng ngày tới nỗi nước mắt cũng đã cạn khô “suối khô dòng lệ” và “xương mai hao gầy”. Mái tóc ngày xưa như “mây”, cùng năm tháng cũng trở nên bạc trắng “đầy tuyết sương”. Tình lang của nàng đã ra đi biết bao nhiêu tháng năm, nàng cũng đã đợi chờ biết bao cái “trời tây ngả bóng tà dương”, vậy mà tình lang của nàng vẫn chưa chịu trở về. Nét son sắt, mĩ miều ngày xưa giờ đã trở nên vàng úa, “phôi pha” cùng thời gian. Tản Đà đã sử dụng ở đây vô cùng chính xác những hình ảnh miêu tả vẻ đẹp của người con gái đồng thời cũng khắc họa chân thật biết bao cái nỗi niềm tương tư của nàng trải qua bao thời gian năm tháng. Chỉ một từ “khô” được sử dụng trong câu “suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”, người đọc có thể cảm nhận được nỗi buồn sâu thẳm của người con gái chờ mong trong vô vọng cùng với nước mắt.

Chỉ vài câu thơ điểm xuyết vậy thôi mà Tản Đà đã họa ra một bức tranh tương tư chỉ có non mà chẳng có nước. Bức tranh sơn thủy ấy cứ như hiện ra trước mắt người đọc đầy sự mong đợi, thương nhớ vô cùng. Thế nhưng, càng tủi hờn hơn khi mà ” Non còn nhớ nước, nước mà quên non”. Người giai nhân (non) kia vẫn đinh ninh lời thề “nặng” son sắt, vậy mà người tình lang (nước) đã quên nàng mất rồi. Nhưng bất luận điều đó, người giai nhân vẫn mong chờ:

“Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non, còn nước hãy còn thề xưa”.

Sử dụng một thành ngữ chỉ sự giả định không thể xảy ra “sông cạn đá mòn”, Tản Đà muốn thay lời người gia nhân nói rằng chỉ cần còn hai người thì lời thề xưa vẫn luôn luôn còn, không bao giờ phôi pha. Ở đây, tác giả cũng sử dụng cặp từ chỉ sự ngang bằng “dù… còn…” để khẳng địnhdù bất cứ điều gì xảy ra thì lời thề son sắt thủy chung vẫn nguyên còn đó. Ba từ “còn” được lặp lại liên tiếp ba lần như muốn khẳng định mối tình son sắt, thủy chung, bền đẹp của người con gái.

Người con gái ở lại trông ngóng người tình lang của mình đi xa trở về. Và chàng đã hẹn thề ngày tái ngộ:

“Non cao đã biết hay chưa?
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi”

Người tình lang của giai nhân đã ước hẹn với người tình của mình rằng chàng sẽ trở về “mưa về nguồn” để đáp lại tấm lòng thủy chung đợi chờ của người con gái. Tản Đà đã vô cùng hữu ý khi sắp xếp cặp từ “non – nước” liên tiếp được đặt ở các vị trí khác nhau nhưng càng ngày càng gần nhau hơn. Ban đầu, như chúng ta thấy ở câu đầu, non – nước được đặt ở vị trí đầu và cuối câu, nhưng đến bây giờ, cách biệt giữa non với nước chỉ còn ở câu trên câu dưới và cuối cùng là sóng đôi cùng nhau “nước non hội ngộ cùng nhau”. Mỗi câu thơ vang lên là những niềm tin, niềm hi vọng tươi sáng cho ngày sum họp cùng nhau. Ở đoạn thơ này, Tản Đà cũng đã đã rất tinh tế khi sử dụng quy luật tự nhiên của đất trời để biểu thị sự trở về của chàng trai. Vòng lưu chuyển quy luật của trời đất ấy khơi lên trong lòng chúng ta sự lạc quan, hân hoan rằng, nước kia, dù có đi tới đâu, có làm gì thì cuối cùng nước cũng sẽ quay về cùng non. Như một chàng trai hân hoan trở về cố hương với người con gái của mình sau khi đã rạng danh, thành đạt. Kết lại lời tỏ của chàng trai, dù chàng còn đi xa nhưng sẽ quay trở về cùng nàng, với “giao ước kết đôi”.

Không chỉ thể hiện tình cảm đôi lứa, lớp nghĩa thứ ba ẩn dụ trong bài mà Tản Đà muốn tỏ ở đây là tình yêu đối với quê hương, non nước. Viết bài thơ này ở giai đoạn khi đất nước đang rơi vào cảnh lầm than dưới quyền cai trị của thực dân Pháp, bài thơ ban đầu bộc lộ nỗi buồn chán, sầu thương khi đất nước đang trong tay giặc. Nhưng đọc đến cuối, ta lại thấy một giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng tràn đầy tình cảm, với âm điệu vui vẻ. Phải chăng, ở đây Tản Đà đang ngập tràn hi vọng về một tương lai khác, tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn.

“Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”

Ngàn dâu ở đây không còn mang màu tang tóc, buồn thương nữa mà “xanh tốt” tượng trưng cho một khởi đầu may mắn, tốt đẹp. Đọc lời thơ mà ta như cảm nhận được niềm hân hoan của người giai nhân, người chinh phụ chào đón người chồng của mình trở về nhà. Cả đoạn thơ ngân lên những thanh âm trong trẻo, ngập tràn niềm vui sướng. Phải chăng ở đây cũng là niềm tin, niềm hi vọng của Tản Đà vào tương lai tươi sáng của quê hương đất nước với cả ngàn năm lịch sử “ngàn năm giao ước”.

Cả bài thơ “Thề non nước” được Tản Đà sử dụng biện pháp “phân – hợp” vô cùng điêu luyện tài tình. Cách sử dụng ngôn từ vô cùng đặc biệt, gợi tả sâu sắc. “Ngóng trông” được viết thành “những ngóng cùng trông”, người đọc cảm thấy cái nỗi buồn dào dạt hơn, lan tỏa sâu sắc hơn, sự đợi chờ cũng dường như dài hơn bao nhiêu lần, … Thể thơ lục bát dân gian được lồng vào trong những câu chữ thấm đượm những tình cảm tha thiết. Cùng với đó là những hình ảnh ẩn dụ thân thuộc đã khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng gần gũi thân thương. Tóm lại, “Thề non nước” ở đây không chỉ là một bài thơ vịnh cảnh bình thường mà ẩn chứa ở trong đó là tình yêu của đôi lứa và không thể không nhận ra tấm lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của Tản Đà. Đặt bài thơ vào những bài thơ khác của Tản Đà như “Chim họa mi trong lồng”, “Vịnh bức địa đồ rách”, … ta mới thấy được tình cảm yêu nước thầm kín mà nhà thơ đã gửi gắm qua từng câu chữ. Hơn thế nữa, để ý hơn, ta nhận ra, trong “Thề non nước”, từ “non – nước” được lặp lại với tần số vô cùng lớn như một lời khẳng định tình yêu của mình đối với quê hương.

Bài thơ “Thề non nước”của Tản Đà là một bài thơ với giọng thơ trữ tình đặc sắc hòa quyện trọng tình cảm yêu thương dạt dào. Bài thơ là sự nhớ mong của người con gái khi chờ đợi người yêu đi xa của mình trở về. Cùng với thể thơ lục bát của dân gian, gửi gắm trong cả bài thơ là tình yêu nước thầm kín của tác giả qua những vần thơ, hình ảnh ẩn dụ tài tình, cách sử dụng điệp từ, biện pháp nghệ thuật linh hoạt,phong phú.Niềm tin yêu, hân hoan về tương lai của đất nước mà tác giả muốn gửi gắm cứ vang vọng mãi trong lòng chúng ta:

“Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề”.

Cùng xem thêm các bài văn mẫu phân tích các bài thơ

– Phân tích bài thơ Nhàn
– Phân tích bài thơ Sang thu
– Phân tích bài thơ Từ ấy

Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button