Đề bài: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài
This post: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài
So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài
I. Dàn ý So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài (Chuẩn)
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Kim Lân, tác phẩm “Vợ nhặt” và nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm.
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” và nhân vật người đàn bà hàng chài.
2. Thân bài:
a. Khái quát về tác giả, tác phẩm:
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường và tinh anh nhất của văn học hiện đại Việt Nam sau 1975.
– Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác năm 1987, thể hiện triết lí nhân sinh quan sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
– Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, nổi bật trong những tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn người Việt Nam.
– Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân và được rút từ tập truyện “Con chó xấu xí”.
b. Nhân vật người vợ nhặt:
* Cảm nhận chung:
– Nhân vật người vợ nhặt là nhân vật được nhắc đến ít nhất trong tác phẩm. Người vợ nhặt không có tên và không có lai lịch, gốc gác cụ thể.
– Thị cũng giống như bao kẻ đói khát khác, ngoại hình trông rất tiều tụy.
– Cử chỉ, điệu bộ thì chao chát, chỏng lỏn.
* Vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhặt:
– Khi theo Tràng về nhà làm dâu thì người vợ nhặt trở nên nữ tính, dịu dàng, đúng mực.
– Người vợ nhặt có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào cuộc sống và đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người.
c. Nhân vật người đàn bà hàng chài:
* Cảm nhận chung:
– Nhân vật người đàn bà hàng chài là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối, cơ cực trong cuộc sống của chúng ta.
– Người đàn bà ấy có ngoại hình xấu xí, thô kệch và thường xuyên phải chịu cảnh bạo lực gia đình.
* Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài:
– Người đàn bà hàng chài giàu đức hi sinh và yêu thương con vô bờ bến cho nên thị thường xuyên bị chồng đánh nhưng vẫn quyết không bỏ chồng.
– Người đàn bà hàng chài là người có tấm lòng bao dung, giàu lòng vị tha, hiểu tâm tính người chồng.
– Người đàn bà hàng chài có nghị lực sống phi thường và thấu hiểu lẽ đời.
d. Điểm giống nhau giữa nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài:
– Cả hai nhân vật đều là hiện thân của những mảnh đời bất hạnh, phải chịu nhiều cơ cực trong cuộc sống.
– Dù hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn nhưng ở hai nhân vật đều ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp và nghị lực sống phi thường đáng được trân trọng.
e. Điểm khác nhau giữa nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài:
– Nhân vật người vợ nhặt chủ yếu được khắc họa ở khía cạnh nàng dâu mới về nhà chồng với những cử chỉ, điệu bộ đúng mực và hóm hỉnh.
– Nhân vật người đàn bà hàng chài nổi bật ở tình yêu thương con và thấu hiểu lẽ đời.
3. Kết bài:
– Khái quát lại hình tượng nhân vật người vợ nhặt và nhân vật người đàn bà hàng chài.
II. Bài văn mẫu So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài (Chuẩn)
Trong kho tàng văn học Việt Nam, đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ dùng ngòi bút của mình để bảo vệ cho những thân phận người phụ nữ bé nhỏ, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Với nhà văn Kim Lân và Nguyễn Minh Châu cũng vậy, ta bắt gặp hình ảnh người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân với vẻ bề ngoài rách rưới, người đàn bà hàng chài với vẻ ngoài thô kệch xấu xí nhưng ở họ đều hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường và tinh anh nhất của văn học hiện đại Việt Nam sau 1975. Ông là nhà văn luôn đi tìm “hạt ngọc” ẩn sâu trong tâm hồn con người. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được ông sáng tác năm 1987 và là một trong những tác phẩm thể hiện triết lí nhân sinh quan sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Cũng là một trong những nhà văn của nền văn học hiện đại, nhà văn Kim Lân lại có sở trường về truyện ngắn, nổi bật trong những tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn người Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, chất phác và lạc quan. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân và được rút từ tập truyện “Con chó xấu xí”.
Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên mà được gọi là “thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Thị chỉ là một trong muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Không ai biết gốc tích của chị, chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì làm”. Thị cũng giống như bao kẻ đói khát khác, ngoại hình trông rất tiều tụy, “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Trong lần đầu gặp mặt, khi nghe lời bông đùa của Tràng, thị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” – một người đàn ông mà chị không hề quen biết và đã đùa giỡn với anh. Lần gặp thứ hai, thị lớn tiếng trách móc anh Tràng vì đã thất hứa “điêu, người thế mà điêu” làm cho Tràng không hiểu chuyện gì. Cái đói, cái khát đã khiến cho thị trở nên trơ trẽn, táo tợn, không cần đến danh dự để có được miếng ăn. Khi được Tràng mời ăn thì “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà xuống, ăn thật”. Liều lĩnh hơn, thị đã chấp nhận theo không Tràng về làm vợ vì một câu nói đùa. Người vợ nhặt biến lời rủ rê thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả sự bông đùa thành sự thật, chị theo người đàn ông lạ về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người ấy.
Những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị cái đói tha hóa, che khuất nhưng trong tâm hồn người phụ nữ ấy vẫn ánh lên những phẩm chất đẹp đẽ của lòng ham sống mãnh liệt, thị khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ hiền hậu đúng mực và lạc quan tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Khi theo Tràng về nhà làm dâu thì người vợ nhặt trở nên nữ tính, dịu dàng, đúng mực. Khi về đến nhà anh Tràng, “thị ngồi mớm ở mép giường” là tư thế e thẹn, ngượng ngùng đầy rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước về nhà chồng. Thị “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”, trong đầu là bao suy nghĩ ngổn ngang, lo lắng, e ngại và cả sự xót xa, nỗi tủi nhục cho phận mình. Thế nhưng, người vợ nhặt ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để vun vén cho hạnh phúc mới của mình. Thị chủ động hỏi thăm, trò chuyện với bà cụ Tứ. Sáng hôm sau, thị dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang, thị cùng với bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người phụ nữ này thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm”. Người vợ nhặt ấy đã đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người. Đối với người dân xóm ngụ cư thì người vợ nhặt đã đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người vợ nhặt chính là niềm an ủi, hạnh phúc lớn lao. Người vợ nhặt đã đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng, mái ấm gia đình đã khiến cho Tràng thay đổi từ một người đàn ông thô kệch vụng về nay bỗng trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang và làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc với lá cờ đỏ tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng niềm khát khao về sự đổi đời.
Người vợ nhặt được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa những hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để giúp cho người đọc hiểu tâm tâm lí của người phụ nữ. Người vợ nhặt đã góp phần to lớn trong việc thể hiện giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Cùng viết về người phụ nữ, về những mảnh đời cơ cực nhưng nhà văn Nguyễn Minh Châu lại có cách xây dựng nhân vật khác so với nhà văn Kim Lân. Nhân vật người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối, cơ cực trong cuộc sống của chúng ta. Người đàn bà hàng chài cũng không có tên gọi giống như người vợ nhặt là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, chị cũng giống như bao người đàn bà vùng biển khác đều nhỏ bé, vô danh. Người đàn bà vùng biển ấy có ngoại hình xấu xí, thô kệch, “trạc ngoài bốn mươi” và thường xuyên phải chịu cảnh bạo lực gia đình “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Những trận đòn roi cứ trút lên người chị thật tàn bạo “lão dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “hai hàm răng nghiến ken két”. Để tránh những tổn thương cho các con khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ nên chị đã xin chồng đưa lên bờ để đánh, chị đã cố gắng hết sức để che chắn nhưng những đứa con hiểu chuyện cũng biết sự thật, nó đánh bố để bênh vực mẹ. Đối với chị, nỗi đau về tinh thần lớn hơn nỗi đau về thể xác.
Người đàn bà hàng chài thất học, phải chịu nhiều đau khổ nhưng có lẽ những trận đòn roi hành hạ cả về thể xác lẫn tâm hồn cũng không khiến cho “hạt ngọc” bên trong tâm hồn chị bị khuất lấp. Người đàn bà hàng chài giàu đức hi sinh và yêu thương con vô bờ bến cho nên thị thường xuyên bị chồng đánh nhưng vẫn quyết không bỏ chồng. Chị có một tôn chỉ sống thiêng liêng rằng: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Đây là sự giãi bày thật tình cho thấy nguồn gốc của tất cả sự chịu đựng, hi sinh ở vào hoàn cảnh đông con. Cuộc sống đầy bất chắc, nỗi lo cơm áo đeo đẳng nhưng vì sống cho con nên người đàn bà ấy đã tự nguyện sống với lão chồng thô lỗ. Cả cuộc đời chị vui nhất đó chính là khi “được nhìn thấy đàn con được ăn no”. Có thể thấy, đây là niềm vui giản dị, thiêng liêng bởi chúng được chắt chiu từ nước mắt, từ đau khổ và đắng cay. Khi cảnh bạo lực gia đình bị đứa con phát hiện thì chị cảm thấy vô cùng đau đớn, “miệng mếu máo”, “ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé”, “chắp tay vái lấy vái để” là hành động giống như lời tạ lỗi của một trái tim yêu thương con vô bờ. Khi bị chồng đánh, chị không khóc nhưng khi ôm con chị lại “giỏ xuống những dòng nước mắt” bởi chị cảm thấy có tội khi làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ của những đứa nhỏ.
Người đàn bà hàng chài là người có tấm lòng bao dung, giàu lòng vị tha nên thị hiểu được nguồn gốc cơn giận của chồng. Chị đã chịu đựng “cơn giận như lửa cháy hàng ngày của chồng” và cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng và cũng không tìm cách trốn chạy. Chị biết Phùng và Đẩu là người có tấm lòng tốt nhưng không hiểu được công việc của người làm ăn khó nhọc nên chị đã kể cho hai người biết về người chồng của mình là một người có bản chất lương thiện, hiền lành nhưng cục tính. Chính cuộc sống đói nghèo đã khiến anh trở thành một người chồng vũ phu độc ác, chị hiểu rằng chồng chị đánh chị như một phương án để giải tỏa hồn. Giống như tất cả những người phụ nữ bao dung khác, chị tự nhận lỗi về mình rằng “giá như tôi đẻ ít đi”. Người phụ này không lạnh lùng, vô cảm trước những đau đớn về thể xác, không phải chị không ý thức được quyền sống của mình bị xâm phạm mà chị ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của chồng nên chị đành phải nhẫn nhục để bỏ qua. Khi cái đói chưa được giải quyết thì chị vẫn cam chịu bị chồng đánh, đó là sự bế tắc cùng quẫn đến tuyệt vọng bộc lộc sức chịu đựng phi thường của người phụ nữ.
Người đàn bà hàng chài còn có nghị lực sống phi thường và rất thấu hiểu lẽ đời. Khi xuất hiện ở Tòa án huyện, lúc đầu người đàn bà tỏ vẻ lúng túng, sợ sệt khi kể lại câu chuyện về cuộc đời mình nhưng thực chất là bảo vệ quan điểm của mình nên người đàn bà ấy đã mất đi vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Người đàn bà đã khiến cho Phùng và Đẩu thay đổi về cách nhìn nhận cuộc đời từ chỗ thất vọng ngạc nhiên đến thông cảm, sẻ chia. Khi nghe Phùng và Đẩu nói, người đàn bà hiểu ngay hai người đối thoại với mình là tốt cho mình. Chị hiểu được tâm trạng tha hóa của chồng, chồng bị cuộc sống khốn khổ đẩy đến chỗ tha hóa. Câu chuyện của chị đã chứa đựng những nỗi thương cảm, ta thấy người chồng cũng là một người đáng thương và người đọc cũng hiểu được rằng người đàn bà hàng chài chọn như vậy là hợp lí.
Nhà văn đã xây dựng nhân vật bằng thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa số phận bất hạnh và phẩm chất nhân hậu, bao dung, thấu hiểu lẽ đời khiến cho nhân vật hiện ra rất chân thực. Nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với số phận cay đắng, tủi nhục nhưng cũng rất đáng trân trọng ở vẻ đẹp của tình mẫu tử, ở sự bao dung độ lượng và có nghị lực sống phi thường.
Cả hai nhân vật đều là hiện thân của những mảnh đời bất hạnh, phải chịu nhiều cơ cực trong cuộc sống. Cũng vì cái đói, cái nghèo đã khiến cho người vợ nhặt không còn quan tâm đến danh dự mà theo không Tràng về làm vợ, người đàn bà hàng chài thì phải gánh chịu những cú đánh từ người chồng vô trách nhiệm. Thế nhưng, dù hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn nhưng ở hai nhân vật đều ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp và nghị lực sống phi thường đáng được trân trọng.
Tuy hai nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài có những điểm chung nhất định nhưng ở họ vẫn có những nét đẹp riêng biệt thể hiện phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Nhà văn Kim Lân thường tập trung miêu tả vẻ đẹp của những con người lao động xung quanh chúng ta cho nên nhân vật người vợ nhặt chủ yếu được khắc họa ở khía cạnh nàng dâu mới về nhà chồng với những cử chỉ, điệu bộ đúng mực và hóm hỉnh. Còn nhà văn Nguyễn Minh Châu lại đi tìm thứ được gọi là hạt ngọc ẩn chứa bên trong tâm hồn con người nên nhân vật người đàn bà hàng chài được khắc họa nổi bật ở tình yêu thương con và thấu hiểu lẽ đời. Ông đã đặt nhân vật người đàn bà hàng chài vào một tình huống nghịch lí để mang đến cho người đọc những nhận thức ngang trái về thực tế đời sống éo le đáng sợ.
Nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đã đem lại giá trị nhân đạo sâu sắc cho hai tác phẩm. Mỗi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật độc đáo riêng biệt trong việc khắc họa hình tượng nhân vật đã giúp cho người đọc có cái nhìn đồng cảm với những số phận bất hạnh. Hai nhân vật trên đều có những phẩm chất tốt đẹp ẩn chứa bên trong tâm hồn cho dù hoàn cảnh có đẩy họ xuống những cái đáy của sự đau khổ, tuyệt vọng.
—————-HẾT—————–
Bài So sánh nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài trên đây là một trong những bài văn sẽ cung cấp cho các em một lượng lớn kiến thức văn học. Ngoài ra, các em cũng có thể tham khảo thêm những bài viết sau để trau dồi vốn kiến thức của mình: Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt, Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt, Phân tích truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Phân tích nhân vật người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)