Giáo dục

Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng

Đề bài: Trình bày Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ

cam nhan ve kho tho cuoi cua bai tho nho rung

This post: Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng

Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng
 

I. Dàn ý Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng

1. Mở bài

– Giới thiệu Thế Lữ và Nhớ rừng.
– Giới thiệu khổ thơ cuối bài.

2. Thân bài

a. Tâm trạng của con hổ:

– “Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ/Là giống hầm thiêng ta ngự trị”:
+ Khao khát tự do mãnh liệt đang dần sục sôi trong lòng con hổ, một lòng chỉ muốn hướng về nơi đại ngàn mênh mông với giọng gọi đầy tha thiết, bi tráng .
+ Từ “hỡi” được đặt ở đầu câu thơ gợi ra cảm giác oai hùng của chúa sơn lâm, bộc lộ tư thế hiên ngang, phong thái cai trị lừng lẫy của một vị vua.
+ “Là chốn hầm thiêng ta ngự trị”: Khẳng định sự quyền làm chủ của bản thân con hổ với núi rừng, lời khẳng định ngầm sự làm chủ đất nước của dân tộc Việt Nam, dẫu rằng hiện tại cả con hổ và cả nhân dân ta đều phải vướng vào những cái gông xiềng nặng nề, khó mà thay đổi.

– “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa/Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”:
+ Con hổ phải quay về với một thực tại đớn đau, liên tục cuộn xoáy, âm ỉ trong trong lòng.
+ Điệp từ “Nơi” làm tăng thêm xúc cảm cũng như nỗi xót xa của nhân vật trữ tình, sự lưu luyến với những hồi ức tốt đẹp, sự tiếc thương đầy bất lực.
+ Giọng thơ chuyển đổi từ một tiếng thét bi tráng cho đến đây thì dần trầm xuống, mang cảm giác đau thương và bất lực.

– “Có biết chăng trong những ngày ta ngao ngán/Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”:
+ Khao khát, nhớ thương sự tự do không chỉ cả khi còn thức mà đến cả trong giấc mơ nó vẫn mang theo “giấc mộng ngàn to lớn”, chưa từng một lần rời bỏ.
+ Con hổ chưa từng khuất phục trước số phận, luôn tràn đầy khao khát tự do mãnh liệt, niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng, quyết theo đuổi những mộng cảnh riêng mình, chứ không chịu khuất phục, chìm đắm trong cảnh tầm thường, giả dối.
=> Giải pháp của con hổ để thoát khỏi cảnh chán chường thực tại, lựa chọn chìm trong những giấc mộng đại ngàn để giữ lại phần oai nghiêm, tốt đẹp, thoát khỏi những nỗi đớn đau, bế tắc và bất lực trước thực tại.

b. Ý nghĩa, nội dung tư tưởng:

– Tâm trạng của con hổ chính là một hình tượng tiêu biểu cho hồn thơ của Thế Lữ, những trí thức tiểu tư sản cùng thời đều phải chịu chung một thực tại ấy là nỗi đớn đau mất nước, mất chủ quyền tộc, bế tắc trong cái vòng luẩn quẩn trước khi được giác ngộ cách mạng.
=> Thỏa mình trong thơ ca, khát khao vươn tới những cái Đẹp xa xăm, nhiều mộng tưởng, thoát ly khỏi cuộc sống trần tục, có nhiều khốn khổ và chán chường.
– Thể hiện khốn cảnh chung của dân tộc Việt Nam, cái thực tại tầm thường, giả dối ở đây chính là luận điệu “khai sáng”, “bảo hộ” đầy xảo trá của thực dân Pháp. Còn nhân dân ta trở thành con hổ bị nuôi nhốt, bị kiềm chế về mọi mặt phải chịu nhục nhã, khốn đốn và bế tắc nhưng vẫn luôn có một khao khát mãnh liệt về cuộc sống tự do. Vẫn nhớ mãi, tiếc nuối mãi cảnh đất nước thanh bình, tươi đẹp thuở trước.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận chung:

II. Bài văn mẫu Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng

Thế Lữ (1907-1989), là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà phê bình, nhà hoạt động sân khấu sôi nổi có nhiều đóng góp và nền nghệ thuật hiện đại của Việt Nam ta. Ông được biết đến bắt đầu vào những năm 1930 của thế kỷ trước bằng việc sáng tạo ra những tác phẩm thơ Mới, mở đường cho một thể thơ theo hơi hướng phương Tây, đặc trưng bởi ảnh hưởng của văn học Pháp. Tuy rằng Thế Lữ trong phong trào thơ Mới không thực sự là một hiện tượng nổi bật và chói sáng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, hay Nguyễn Bính thế nhưng những tác phẩm của ông cũng có nhiều nét hay, thể hiện tinh thần đổi mới, cố gắng cách tân thơ ca Việt Nam, là người cầm ngọn cờ tiên phong mở đường cho các nhà thơ tiếp theo. Trong giai đoạn trước cách mạng có thể nhận thấy rằng thơ Thế Lữ là biểu hiện của một tâm hồn muốn thoát ly khỏi cái xã hội rối ren, loạn lạc và bế tắc. Hồn thơ ông luôn rộng mở, tìm tòi đến những vẻ đẹp xa xăm, nhiều mộng ảo, tránh thoát khỏi trần thế phàm tục, tầm thường, đầy giả dối, đôi lúc còn mang hơi hướng trốn tránh sự đời của các nhà Nho cũ. Phong cách thơ ấy của Thế Lữ được biểu hiện một cách rõ nét trong bài thơ Nhớ rừng, mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để diễn tả tâm trạng của bản thân. Đây được xem là bài thơ hoàn toàn thành công của Thế Lữ trong các sáng tác thơ Mới, mà ở khổ thơ cuối chính là tấm lòng khao khát tự do mãnh liệt, đồng thời cũng ẩn hiện trong đó là tấm lòng yêu nước sâu sắc và sự bất lực trước thời cuộc.

Con hổ trong bài thơ là một hình tượng độc đáo, được tác giả khai thác một cách khéo léo, thể hiện đúng phong cách thơ đi tìm cái Đẹp, những vẻ đẹp xa xăm, hùng vĩ và tráng lệ. Trong Nhớ rừng có thể thấy rằng hình ảnh con hổ bị giam cầm chính là hình ảnh của nhà thơ, tâm hồn của một con người có tráng chí cao đẹp, khao khát tự do vẫy vùng thế nhưng lại phải chịu gò bó, mất tự do. Mà vườn bách thú ở đây chính là thực cảnh đất nước bế tắc, giả dối dưới quyền cai trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai bù nhìn, ăn hại chỉ biết chèn ép nhân dân. Sau những khổ thơ bộc lộ sự chán ghét cảnh thực tại, tầm thường giả dối cũng như nỗi nhớ nhung tha thiết chốn non cao bóng cả, cuộc sống tự do vẫy vùng bốn bể của con hổ (hay chính là của tác giả). Thì ở khổ thơ thứ năm có thể coi là một lời kết, là tâm trạng của tác giả sau tất thảy những cảnh thực tại và hồi ức.

“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ
Là giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ta ngao ngán
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

Từ những dòng thơ ta có thể cảm nhận được được khao khát tự do mãnh liệt đang dần sục sôi trong lòng con hổ, một lòng chỉ muốn hướng về nơi đại ngàn mênh mông với giọng gọi đầy tha thiết, bi tráng “Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ”. Từ “hỡi” được đặt ở đầu câu thơ gợi ra cảm giác oai hùng của chúa sơn lâm, một tiếng thét làm rúng động cả núi rừng, bộc lộ tư thế hiên ngang, phong thái cai trị lừng lẫy của một vị vua. Khẳng định sự quyền làm chủ của bản thân con hổ với núi rừng “Là chốn hầm thiêng ta ngự trị”, không chỉ vậy nếu suy nghĩ sâu xa một chút thì đây còn là lời khẳng định sự làm chủ đất nước của dân tộc Việt Nam, dẫu rằng hiện tại cả con hổ và cả nhân dân ta đều phải vướng vào những cái gông xiềng nặng nề, khó mà thay đổi. Thế nên sau những tiếng thét bi tráng, sau lời khẳng định quyền làm chủ, con hổ đã phải quay về với một thực tại đớn đau, liên tục cuộn xoáy, âm ỉ trong trong lòng “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa/Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”. Sử dụng điệp từ “Nơi” làm tăng thêm xúc cảm cũng như nỗi xót xa của nhân vật trữ tình, sự lưu luyến với những hồi ức tốt đẹp, sự tiếc thương đầy bất lực. Núi non đại ngàn đã từng là nơi chúa sơn lâm ngự trị, “thênh thang vẫy vùng”, thế nhưng tất cả chỉ còn là một hồi ức huy hoàng tốt đẹp của “ngày xưa”, còn cho đến hôm nay hổ ta phải đối mặt với một thực tại đau đớn rằng chốn “nước non hùng vĩ”, chốn nó từng ngự trị chỉ còn là cảnh tượng mà nó “không còn được thấy bao giờ” nữa, đầy xót xa, nuối tiếc. Giọng thơ chuyển đổi từ một tiếng thét bi tráng cho đến đây thì dần trầm xuống, mang cảm giác đau thương và bất lực, khi mà có lẽ cả đời con hổ sẽ mãi mãi chịu đựng cảnh giam cầm mua vui, với thực tại tầm thường giả dối, còn hoài bão tung hoành chốn sơn lâm đã vĩnh viễn phải khép lại từ đây. Đặt mình mà vào trong tình cảnh ấy của con hổ, người ta mới lại càng thấm thía, một cuộc đời tự do, làm vua muôn loài, cuối cùng lại chấp nhận cảnh giam cầm, sánh ngang cùng những giống loài mà trước đây nó từng cai trị, cơ man nào là đau đớn và tủi hờn hơn thế nữa. Sự đau đớn, nỗi bồi hồi nuối tiếc càng lớn trong tâm hồn trong biết bao ngày ngao ngán chán chường của con hổ, đến độ nó khao khát, nhớ thương sự tự do không chỉ cả khi còn thức mà đến cả trong giấc mơ nó vẫn mang theo “giấc mộng ngàn to lớn”, chưa từng một lần rời bỏ. Có thể thấy rằng con hổ vẫn mãi là con hổ, một vị chúa sơn lâm oai hùng, kiêu hãnh, sự giam cầm hay nỗi nhục nhã chưa bao giờ có thể giết được tráng chí và mộng tưởng tung hoành tốt đẹp trong lòng nó. Khác với lũ gấu dở hơi, khác với cặp báo vô tư lự, hổ ta chưa từng khuất phục trước số phận, mặc dầu số phận của nó đang trong cảnh bế tắc, không hề có lối thoát. Thế nhưng tâm hồn nó ngoài đau thương, nuối tiếc thì luôn tràn đầy khao khát tự do mãnh liệt, niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng, quyết theo đuổi những mộng cảnh riêng mình, chứ không chịu khuất phục, chìm đắm trong cảnh tầm thường, giả dối. Đó là một giải pháp của con hổ để thoát khỏi cảnh chán chường thực tại, lựa chọn chìm trong những giấc mộng đại ngàn để giữ lại phần oai nghiêm, tốt đẹp, thoát khỏi những nỗi đớn đau, bế tắc và bất lực trước thực tại. Có thể thấy rằng, tâm trạng của con hổ chính là một hình tượng tiêu biểu cho hồn thơ của Thế Lữ, bản thân Thế Lữ cũng phải chịu sự kìm kẹp của chế độ thực dân – nửa phong kiến tàn ác, bất công, những trí thức tiểu tư sản cùng thời đều phải chịu chung một thực tại ấy là nỗi đớn đau mất nước, mất chủ quyền tộc. Thế nhưng bản thân họ lại không thể tìm ra một lối thoát cho riêng mình, vẫn cứ mãi bế tắc trong cái vòng luẩn quẩn trước khi được giác ngộ cách mạng. Nếu như con hổ tìm về đại ngàn trong những giấc mộng của riêng nó, thì Thế Lữ lại chọn cách thỏa mình trong thơ ca, khát khao vươn tới những cái Đẹp xa xăm, nhiều mộng tưởng, thoát li khỏi cuộc sống trần tục, có nhiều khốn khổ và chán chường. Nhìn sâu hơn nữa, thì ngoài thể hiện tư tưởng của tác giả, bài thơ còn thể hiện khốn cảnh chung của dân tộc Việt Nam, cái thực tại tầm thường, giả dối ở đây chính là luận điệu “khai sáng”, “bảo hộ” đầy xảo trá của thực dân Pháp khi sang xâm lược nước ta, hòng làm u mê, lung lạc ý chí của nhân dân ta để dễ bề cai trị. Còn nhân dân ta trở thành con hổ bị nuôi nhốt, bị kiềm chế về mọi mặt phải chịu nhục nhã, khốn đốn và bế tắc nhưng vẫn luôn có một khao khát mãnh liệt về cuộc sống tự do. Vẫn nhớ mãi, tiếc nuối mãi cảnh đất nước thanh bình, tươi đẹp thuở trước tựa như việc con hổ tiếc nhớ về cảnh hùng vĩ chốn non cao.

Nhớ rừng là một bài thơ hay, tiêu biểu cho phong trào thơ Mới giai đoạn khởi đầu, là lá cờ tiên phong dẫn lối cho các nhà thơ khác phát triển hơn nữa nền thơ ca Việt Nam, thoát khỏi phong các thơ cổ, theo lối mòn cứng nhắc. Có thể thấy rằng không chỉ đoạn thơ cuối mà cả bài thơ Nhớ rừng đều tập trung hướng về một nội dung chính là sự bế tắc của đất nước và con người Việt Nam giai đoạn trước cách mạng, phải chịu cảnh tù đày, nô lệ đầy nhục nhã, luôn đau đáu hối tiếc về những ngày tháng tự do, tốt đẹp xưa cũ, nhưng nhân dân ta chưa từng một ngày chịu khuất phục, dẫu thực cảnh có bế tắc, họ vẫn luôn tìm cách giải phóng bản thân mình bằng niềm hy vọng, khao khát tự do mãnh liệt, chống chọi với những cái tầm thường, giả dối độc ác. Nhớ rừng không chỉ là tư tưởng theo đuổi cái Đẹp, mộng tưởng thoát ly của Thế Lữ mà còn thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc và nỗi đau đớn, bất lực trước thời cuộc rối ren.

——————–HẾT———————–

Mượn hình ảnh con hổ bị giam cầm trong sở thú, nhà thơ Thế Lữ đã kín đáo thể hiện cảm giác tù túng, mất tự do của con người trong xã hội đương thời, cùng với Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng, các em có thể tìm hiểu chi tiết về đặc sắc nội dung bài thơ qua bài: Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Nhớ rừng, Cảm nhận về hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng, Phân tích tâm trạng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.

Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button