Đề bài: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
This post: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
3 bài văn mẫu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Bài mẫu số 1: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Nguyễn Đinh Chiểu là nhà thơ mang một tấm lòng yêu nước sâu nặng. Trong cuộc đời cầm bút của mình, nhà thơ luôn lấy quan niệm đạo đức, tấm lòng vì dân vì nước làm tâm điểm trong sự nghiệp sáng tác của mình. Viết về nhiều đề tài khác nhau, nhưng có lẽ luôn sát cánh và cập nhật nhất vẫn là những vần thơ chống giặc, cổ động tinh thần yêu nước cùng nhân dân. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho những áng văn yêu nước của tác giả, thể hiện một quan niệm, một cách nhìn mới về người anh hùng của nhà thơ trong văn học.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú luật Đường, bố cục gồm bốn phần đúng như quy định của thề văn tế. Tác phẩm ra đời đã khẳng định sự thành công trong ngòi bút viết vận tế cùa Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn được ra đời để tưởng nhớ đến các chiến sĩ cần Giuộc đã anh dũng hi sinh trong cuộc chiến đấu chống xâm lược, cổ vũ, khích lệ tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc, cứu nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là một tượng đài nghệ thuật hiếm có. Bi tráng là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: Vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thông thiết, bi ai. Thể hiện một quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu một cách mới lạ mà người đọc chưa từng thấy trong văn học yêu nước giai đoạn trước đó.
Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu có gì khác so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trước kia, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung thể hiện những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Còn đến với văn thơ Nguyễn Đình Chiểu hình ảnh về người anh hùng không có gì xa lạ mà ngay trong bản thản nông dân hiền lành, suốt ngày chỉ biết cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Có thể nói về người anh hùng, tác giả của chúng ta không phải đi tim kiếm những hình tượng ở đâu xa xôi cả mà đó là những người nông dân chân chất, thật thà có tấm lòng yêu nước sâu nặng. Cái tài của Nguyễn Đình Chiểu là đã phát hiện và xây dựng được hình tượng người anh hùng nông dân áo vải. Đây không phải là một cá nhân cụ thê mà đó là cả tập thể những người anh hùng, họ là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, suốt cuộc đời cui cút sau lũy tre xanh, chất phác, cần cù chịu khó làm ăn chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Họ là lớp người chân lấm tay bùn chì biết: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. Thế nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược những người dân ấp dân lăn ấy đã anh dũng đứng lên mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Đánh giặc để cứu nước nhà, để bảo vệ Bát cơm manh áo ở đời là cái nghĩa lớn mà họ mến và đeo đuối. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu văn giản dị mà thấm đượm một tinh thần yêu nước cao đẹp.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Nhà văn đã tái hiện lại một cuộc chiến đấu với sức mạnh quật cường và khí thế chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Cần Giuộc. Quân trang chỉ là một manh áo vải, vũ khí chỉ có một ngọn tẩm vông, hoặc một lưỡi dao phay, một súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Thế mà họ vẫn lập được chiến công chém rớt đầu quan hai nọ và đốt xong nhà dạy đạo kia. Quả thực, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng đài nghệ thuật về những người anh hùng chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Chứng minh rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Chi nhọc quan quản gióng trông kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Đây là những câu văn tuyệt bút. Không khí chiến trận thật sôi sục trống kỉ, trống giục, đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Các chiến sĩ coi cái chết như không tấn công như vũ bão vào đồn của giặc. Với giọng văn hào hùng, phép đối tài tình, các động tứ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đà dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất, ngợi ca, khâm phục tự hào. Qua đó, ta thấy được lần đầu tiên hình tượng người nông dân đi vào thơ văn với tầm đứng của các anh hùng dân tộc, những anh hùng xuất thân từ tầng lớp nóng dân, quanh năm chân lấm tay bùn dường như chỉ biết có việc cày, việc cuốc, vậy mà khi có giặc xâm lược, họ đã anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và hăng hái nhất, chiến đấu quên mình cho nền độc lập dân tộc.
Cái độc đáo ở Nguyễn Đình Chiểu là nhìn thấy được những con người anh hùng ngay bên cạnh mình, đó không phải là các bậc hào kiệt anh tài mà chỉ là những người nông dân sống hiền lành, chăm chỉ làm ăn. Hàng ngày, họ vẫn luôn luôn gần gũi với chúng ta. Xuất phát từ cái nhìn của Nguyễn Đình Chiểu – về người anh hùng nông dân, làm cho người đọc nhận ra rằng những anh hùng, những con người cao cả không phải ở đâu xa mà họ luôn ngay cạnh bên mình. Có thể nói, quan niệm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng có được mà ta thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đi đầu về quan niệm này.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm lòng chiến đấu và hi sinh của họ là tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Bài học lớn nhất của người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang, chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng “Tượng đài nghệ thuật về người nông dân đánh giặc”. Bài văn tế được đúc kết thành một triết lí, một quan niệm sống của nhân dân ta.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia…
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc cho văn học thời trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngữ bình dị, mà tinh tế, bài văn đã tái hiện chân thực và đầy xúc động cả một thời đại đau thương nhưng anh dũng của dân tộc. Tác phẩm là một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người anh hùng nông dân khởi nghĩa, thể hiện sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong chống giặc xâm lược. Bài văn tế là lời ca ngợi, biết ơn của Nguyễn Đình Chiểu về những con người hùng dùng hiên ngang, hình ảnh của họ mãi mãi đi vào tâm trí nhân dân với sự biết ơn và ngưỡng mộ, tự hào.
—————- Hết bài 1 —————–
Bên cạnh bài mẫu chứng minh Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân, các em có thể tìm hiểu thêm nội dung Tóm tắt bài Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc hay phần Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc nhằm ôn tập kiến thức và nâng cao kĩ năng làm văn của mình.
Bài mẫu số 2: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông đầy những bất hạnh. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông trở thành tám gương sáng về nhiều mặt…”Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc Pháp cuối thế kỉ XIX”. Lời đánh giá trên rất xứng đáng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ qua, đọc lại bản văn tế ấy, ai không dạ dào xúc động, bởi”nước mắt anh hùng” có bao giờ ráo khô
Mở đầu tác phẩm, tác giải đã cất lên tiếng than:
Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ!
Đây chính là hoàn cảnh, là cái nền mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Kẻ thù hung hãn đã tới. Xã tắc chao đảo trước”tàu sắt, tàu đồng, súng nổ”, phải chăng, đây là lúc:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Cũng chính là lúc:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dát bay
(Chạy Tây – Nguyễn Đình Chiểu)
Từ hoàn cảnh khốc liệt, tan tác, đau thương này, tấm lòng của người dân đã rực sáng giữa trời xanh!
Họ là ai?
Họ không phải là những sĩ phu, những chí sĩ, cũng không phải những đại gia từng được ơn vua lộc nước hậu hĩnh. Họ chỉ là những người:
Côi cút làm ăn, lo toan nghèo
… Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Họ hoàn toàn là nông dân, nông dân 100% những con người quanh năm chưa từng bước ra khỏi lũy tre làng! Hơn thế, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo lắm. Hai chữ”côi cút” của cụ Đồ mới xót xa làm sao! Có nghĩa là ngày thường, nhưng tháng năm dài dặc kia, họ chẳng được”chăn dắt” như mạo nhận của bọn vua quan. Một đời, nhiều đời thui thủi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Thế nhưng, chính những con người bị bỏ rơi ấy lại là những người đầu tiên đứng lên, cho dù chẳng phải quân cơ, quân vệ. Họ chỉ vì nghĩa lớn mà tập hợp dưới cờ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Hướng dẫn Chứng minh nhận định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Với hai câu văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu dã cho ta thấy họ quả là những nghĩa sĩ, những con người có trách nhiệm lớn với non sông, những con người mang trong mình dòng máu bất khuất. Cho nên, chính họ đã quyết”Phen này xin ra sức đoạn kình… Chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Đó chính là tư tưởng của những Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng từng chém cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rùng sâu trong lịch sử dân tộc.
Nhưng Cụ Đồ Bến Tre vẫn không quên chính họ là những người chân đất có tấm lòng căm thù giặc tới tận xương tủy:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!
Chính sự căm thù này khiến họ vượt qua khó khăn thiếu thốn, không đợi trang bị vũ khí, ăn mặc, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch mạnh, có vũ khí tối tân, có linh đánh thuê hung hãn, có bọn Việt gian thâm hiểm…nhất quyết ngay một lúc vào trận với những vũ khí tự tạo thô sơ:” Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay”, nghĩa là có gì đánh nấy, miễn là giết được giặc! Nếu không có tấm lòng vì nghĩa lớn, làm sao có được cái gan ấy?
Và, khi vào trận, họ quả là phi thường:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Quả là một trận chiến dũng mãnh, quyết liệt đến liều mạng của lòng căm thù! Các động từ mạnh như”đạp – lướt – xô – xông – đâm ngang – chém ngược…” khiến cho người đọc hàng trăm năm sau còn như thấy trước mắt khí thế vũ bão ào ào của nghĩa quân. Trong ánh lửa bập bùng, loang loáng những bắp tay trần, loang loáng ánh thép dao phay, rầm rập những bước chân, ầm ầm tiếng thét giết tươi kẻ thù…
Trong văn học Việt Nam đến thời điểm ấy, hiếm có một bức tranh công đồn nào hiện thực sinh động như thế! Không một chút ước lệ, ngòi bút kí sự, dặc tả của nhà Nho mới quý giá biết bao! Vì sao một người”quanh mình chỉ có bóng đêm” mà lại nhìn sáng tỏ đến như thế? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ là tất cả!
Chính tinh thần quyết chiến ấy của người nghĩa sĩ đã làm nên những chiến công rất đáng ca ngợi. Họ đã tiêu diệt dược tên chỉ huy ác ôn, đã đốt cháy ổ gián điệp, tức là kẻ thù nổi, kẻ thù chìm, kẻ thù bằng xương bằng thịt, kẻ thù tư tưởng (nhà dạy đạo)… Càng có ý nghĩa lớn khi những chiến công ấy được lập lên từ những vũ khí rất thô sơ! Bức tượng đài hoành tráng ấy càng lẫm liệt.
Xót xa thay! Họ đã ngã xuống! Sự hi sinh anh dũng của họ đã làm đau xót cả đất trời Nam Bộ:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Đất trời mờ mịt! Người người khóc thương! Nỗi sầu thảm này biết mấy xót xa! Đằng sau cái chết của người anh hùng sẽ là:
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hòa máu và nước mắt để viết nên những câu văn não lòng như thế!
Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã gạt lệ để ngợi ca tấm gương hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ với tấm lòng son vằng vặc ánh trăng rằm,”sống đánh thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả kia”, nghĩa là những con người ấy chết mà vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không sao ngăn được ngậm ngùi xót thương đau đớn!
Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bằng ngòi của mình sẽ mãi mãi tồn tại cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dán đánh giặc! Chúng ta đều biết, người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lổ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, chuốt nhọn mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật trung tâm! Nay, Nguyễn Đình Chiểu đă trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thê kỉ XIX có phần đóng góp xứng đáng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ! “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về những người anh hùng thất thế” (Phạm Văn Đồng).
Xỉn được thắp một nén tâm hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ người anh hùng liệt sĩ, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Bài mẫu số 3: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Nguyễn Đình Chiểu là một thi sĩ mù nhưng tấm lòng ông rất sáng. Khi giặc Pháp xâm lược Nam Bộ, ông không thể theo các nghĩa sĩ để đánh Tây, nhưng ông vẫn theo dõi thời cuộc, chiến sự. Ông sáng tác thơ văn ca ngợi các lãnh tụ của nghĩa quân, ca ngợi các vị nghĩa sĩ đã vì nghĩa lớn anh dũng đánh Tây. Ông tỏ lòng thương tiếc những người anh hùng vô danh đã hi sinh cho Tổ quốc. Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác của ông, là đỉnh cao tư tưởng, tình cảm, nghệ thuật trong văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong nền văn học nước nhà, hình ảnh người nông dân đứng lên đánh giặc bảo vệ đất nước hiện lên sừng sững như một tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sự sáng suốt của Nguyễn Đình Chiểu là đã dồn bút lực, tài hoa để ca ngợi những người anh hùng thất thế.
Trong tiếng khóc cao cả của thi sĩ, trong những giọt nước mắt thương tiếc của nhân dân, hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc hiện lên rõ ràng :
Súng giặc đất rền
Lòng dân trời tỏ
Hình ảnh đối lập trên đã diễn tả được mâu thuẫn sâu sắc, quyết liệt của thời đại, mâu thuẫn xâm lược và chống xâm lược ,khẳng định vai trò người dân trong công cuộc bảo vệ đất nước. “Lòng dân” đã sáng rực lên trong lửa đạn, trong âm vang của chiến tranh. Chỉ có nhà nghệ sĩ của nhân dân mới tạc tượng người nông dân một cách thiêng liêng giữa trời cao đất rộng, trong thời đại bão táp như vậy.
Bức “Tượng đài nghệ thuật” còn được người nghệ sĩ của nhân dân dựng lên chi tiết hơn với những nét hoành tráng, sống động. Họ là những người nông dân chịu thương, chịu khó làm ăn, chưa hề tham gia việc quân, việc kháng chiến
Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làm bộ
Họ là những người nông dân Nam Bộ thế kỉ thứ XIX, người nông dân của nước Việt Nam phong kiến, lạc hậu, tắc tị, nghèo nàn. Họ hiền lành, chăm chỉ làm ăn, chỉ quen với ruộng đồng “một con trâu cũng thân hơn một tên hoàng đế ” – nói như một nhà thơ Hi Lạp.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân
Họ hoàn toàn xa lạ với việc quân “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, còn nói gì đến việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”, còn nói gì đến “mười tám ban võ nghệ”.
Nhưng khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương đất nước thì những người nông dân tưởng như chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” đã đứng lên đánh giặc, cứu nước với lòng yêu quê hương sâu sắc, với lòng căm thù giặc cao độ, những người nông dân lương thiện đã trở thành những nghĩa sĩ kiên cường, bất khuất tuyệt vời.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Họ vào cuộc chiến với tinh thần tự nguyên ” nào đợi ai đòi ai bắt”, “chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi”, vì họ chẳng còn hi vọng gì vào cái triều đại thối nát đó nữa.
Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, quân phục của họ chỉ là “một manh áo vảo”, quân trang của họ chỉ là “một ngọn tầm vông”. Có thể nói vũ khí sắc bén của họ là lòng yêu nước, với vũ khí tinh thần quý báu này, họ đã chiến đấu dũng cảm phi thường
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chép rớt đầu quan hai nọ
Với tinh thần yêu nước cao cả, họ đã biến công cụ sản xuất thành vũ khí sắc bén, lợi hại. Tượng đài nghệ thuật về người chiến sĩ nông dân Cần Giuộc đã hiện lên trước mắt chúng ta với một manh áo vải, một tay cầm con cúi còn ngùn ngụt khói và một tay vung lên lưỡi dao phay!
Họ đã tả xung hữu đột, bất kể vũ khí hiện đại của giặc Pháp lúc bấy giờ:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho Mã tà, Ma ní hồn kinh.
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Đây là một “tượng đài nghệ thuật”, một quần tượng thì đúng hơn, dựng lại một cách sống động cuộc nổi dậy của những người nông dân Cần Giuộc chống Pháp trong những ngày đầu thực dân Pháp đặt chân xâm lược đất nước ta. Nhóm tượng có màu sắc, có đường nét sắc sảo và hình khối ghồ ghề khiến người đọc có thể hình dung được những hành động quyết liệt, những âm vang cuồng nộ của những người nông dân vùng lên giết giặc.
Lí tưởng của người nghĩa sĩ nông dân đơn giản mà cao quý biết bao:
Sống làm chi, theo quân tả đạo quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính Mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Với những đường nét hoành tráng, người nghệ dĩ nhân dân đã tạc nên “tượng đài nghệ thuật” một cách hùng tráng. Hùng tráng vì đây là hành động của những người anh hùng vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở lí tưởng tốt đẹp, phẩm chất cao cả của người nghĩa sĩ nông dân. Hùng tráng vì nó đượng dựng lên trong một thời địa sóng gió, bão táp, trong những giờ phút nghiêm trọng sống còn của đất nước.
Hùng tráng mà bi thương vì họ là những anh hùng chiến bại. Nói “tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng” là đúng. Nhà thơ đã dựng một “tượng đài nghệ thuật”về những người nghĩa sĩ nông dân trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ và của nhân dân. Nhưng tượng đài bi tráng chứ không bi lụy. Trong nước mắt, trong tiếng khóc, ta có cảm tưởng nhà thơ muốn dựng tượng đài nghệ thuật – những người nghĩa sĩ nông dân – trong lòng người. Họ sống mãi trong tình thương, trong trái tim của những người thân yêu, trong lòng nhân dân.:
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Họ đành thành bất tử. Tưởng chừng cuộc chiến đấu anh dũng của họ vẫn còn đang tiếp diễn cùng với sự nghiệp giữ nước vĩ đại của dân tộc:
” Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn khiếp nguyện được trả thù kia”
Tượng đài, bia đá, nhiều khi còn bị hao mòn, vì thời gian, vì con người phá hủy, nhưng tượng đài nghệ thuật về những người chiến dĩ nông dân dựng lên trong lòng người thì bền vững, bất diệt.
Ông Phạm Văn Đồng trong bài “Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc” từng đặt bài văn tế này ngang hàng với bài “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi và cho rằng một bên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang. “Tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam anh hùng.
—————— Hết —————–
Trên đây, Mầm Non Ánh Dương đã giới thiệu cho các em 3 bài văn mẫu chứng minh Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về người anh hùng nông dân đặc sắc, được tuyển chọn từ các bài văn hay nhất của các em học sinh khối THPT trên toàn quốc. Ngoài ra, để ôn tập kiến thức, rèn kỹ năng viết bài văn phân tích đoạn văn, đoạn thơ trong chương trình học Ngữ văn lớp 11, các em có thể tìm hiểu bài mẫu Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương, Phân tích tâm trạng người lữ khách trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát, Phân tích cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ qua bài thơ Bài ca ngất ngưởng, phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương,…
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)