Giáo dục

Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà

Đề bài: Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà

tinh than yeu nuoc trong bai tho nam quoc son ha

This post: Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà

Bài làm:

Bài mẫu số 1: Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà

” Nam quốc sơn hà” ( tương truyền của tác giả Lý Thường Kiệt ), còn gọi là bài thơ “Thần” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Sự ra đời của bài thơ gắn liền với tên tuổi của Lí Thường Kiệt và trận chiến chống quân xân lược Tống ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (năm 1077). Bài thơ là lời khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược, nói cách khác bài thơ ” Nam quốc sơn hà” đã thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, cả bài chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ bảy chữ, nhưng đọc lên ta có cảm giác chữ nào trong bài thơ cũng ngời sáng tinh thần yêu nước. Mà trước hết điều đó được thể hiện qua lời tuyên bố về chủ quyền của đất nước:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Ngay trong hai câu thơ mở đầu cùng với giọng thơ hào hùng, đanh thép mang ý nghĩa khẳng, là qua việc sử dụng các chữ: “quốc” (nước),” đế” (vua). Như chúng ta đã biết chữ “đế” và chữ “vương” đều có nghĩa là vua, người đứng đầu 1 đất nước, đại diện cho nhân dân, nhưng trong các triều đại phong kiến Trung Quốc xưa, vua Trung Quốc tự xưng là “đế” (có thể hiểu là ông vua lớn) còn các ông vua đứng đầu ở các nước láng giềng thần phục chỉ phong “vương” (có thể hiểu là ông vua nhỏ). Như vậy với việc dùng từ các từ: “quốc”, “đế”. Câu thơ thứ nhất không chỉ là lời khẳng định nước Nam ta là một đất nước độc lập, có chủ quyền riêng và vua chính là đại diện tối cao cho dân tộc, mà câu thơ còn thể hiện sâu sắc thái độ tự hào, tự tôn dân tộc, tự coi nước Nam là một nước ngang hàng với nước Bắc, vua Nam bằng vai với hoàng đế Trung Quốc.

Điều này tiếp tục được khẳng định trong câu thơ tiếp theo:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Với cách lập luận chặt chẽ rõ ràng, giọng điệu dứt khoát, câu thơ thứ hai tiếp nối mạch cảm xúc của câu thơ thứ nhất: Khẳng định đanh thép nước Nam là của người Nam, điều đó là chân lý, là trời định, đã được ghi rõ ràng ở sách trời “tại thiên thư” không thể chối cãi được. Như vậy, ranh giới bờ cõi của dân tộc còn được cả trời cao chứng giám. Điều đó thật thiêng liêng và có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đọc câu thơ, hẳn mỗi chúng ta đều cảm nhận rất rõ thái độ tự hào sâu sắc mà người viết đã gửi gắm qua lời tuyên bố chủ quyền đanh thép…

Không phải vô cớ mà “Nam quốc sơn hà ” lại được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta, bởi mỗi chữ trong bài thơ đều ngời sáng tinh thần yêu nước với ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Với hình thức là một câu hỏi, hỏi trực tiếp quân giặc: Cớ sao một chân lý hiển nhiên, rõ ràng như thế, lại thiêng liêng tự trời cao như thế vậy mà các ngươi lại dám xâm phạm? Thái độ rõ ràng quyết liệt coi kẻ xâm lược là “nghịch lỗ”. Câu thơ vừa chỉ rõ sự phi lý, phi nghĩa trong hành động xâm lược của quân thù, đồng thời còn khơi gợi tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm của mỗi người dân nước Nam với đất nước:

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Việc kẻ thù ngang ngược, làm trái sách trời sẽ khiến cho chúng tự chuốc lấy bại vong “thủ bại hư”. Đó là kết cục tất yếu dành cho kẻ xâm lược, làm trái đạo trời… Câu thơ thứ tư như một lời cảnh cáo đanh thép vang lên khẳng định giặc sẽ thất bại thảm hại và ta sẽ dành chiến thắng. Đó cũng là cái kết xứng đáng cho kẻ cướp nước, chính bọn chúng sẽ phải gánh lấy thất bại thảm hại do hành động phi nghĩa mà chúng đã gây ra.

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” chỉ gói gọn trong 28 chữ ngắn ngủi, nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Đó là lời Tuyên ngôn về nền độc lập, về chủ quyền của đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm. Bài thơ cũng là một văn bản nghị luận chính trị dùng lý lẽ để nói về một việc trọng đại của đất nước: độc lập, chủ quyền dân tộc nhưng vẫn mang đậm sắc thái tình cảm…Có lẽ vì thế, mặc dù đã ra đời cách đây gần một thiên niên kỷ, nhưng “Nam quốc sơn hà” vẫn là một minh chứng ngời sáng về tinh thần yêu nước của cha ông thuở trước, để mãi mãi thế hệ chúng ta ngày hôm nay vẫn cảm thấy tự hào!

Bài mẫu số 2: Tinh thần yêu nước trong bài thơ Nam quốc sơn hà

I. Dàn ý:

 

1. Mở bài

 

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường đã nói lên biết bao ý chí sắt son và lòng yêu lãnh thổ đất Việt thương yêu.

 

2. Thân bài

 

* Tinh thần yêu nước thể hiện ở sự ý thức về chủ quyền dân tộc:

– Khẳng định nước Nam là của vua Nam

– Đó là lẽ tự nhiên, ý trời đã phân định, không ai có thể phủ nhận.

=> Lòng yêu Tổ quốc, tự hào về đất nước mạnh mẽ.

 

* Tinh thần yêu nước thể hiện ở niềm tin vào chiến thắng tất yếu của dân tộc.

– Tố cáo hành động bạo ngược của quân giặc là phi nghĩa, vô nhân đạo.

– Khẳng định sự thất bại của giặc trong cuộc chiến.

– Ý chí chiến đấu => niềm tin vào thắng lợi.

 

3. Kết bài

 

Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng điệu hào hùng, lời lẽ đanh thép, hùng hồn, văn phong cô đọng, súc tích, Lí Thường Kiệt đã viết nên một áng văn bất hủ, xứng danh đời đời. Tác phẩm mãi là bài học cho con cháu về lòng yêu Tổ quốc, đất nước hiện tại và mai sau.

 

II. Bài mẫu

 

Dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống và lòng yêu nước từ bao đời. Truyền thống ấy đã đi vào biết bao bài ca, lời thơ một cách tự nhiên và bình dị như thế. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt cũng không nằm ngoài lẽ đó, tác phẩm đã ánh lên biết bao ý chí sắt son và lòng yêu lãnh thổ đất Việt thương yêu. “Nam quốc sơn hà” được viết vào những năm dân tộc ta chống quân Tống xâm lược và được xem như một bản tuyên ngôn độc lập sáng ngời tình thần yêu nước.

 

Trước hết, tinh thần ấy được thể hiện qua sự tự ý thức về chủ quyền của dân tộc ta. Đó là sự tự hào, lời khẳng định về chủ quyền, lãnh thổ của đất Nam, trời Nam:

 

 “Sông núi nước Nam vua Nam ở”

 

Một tuyên bố đinh ninh, chắc chắn về sông núi nước Nam chính là của vua Nam mà không phải của bất kì ai khác. Nếu ở phương Bắc có vua Bắc thì đất Nam cũng có vua Nam trị vì, hai phương hai lãnh thổ  hai chủ quyền sánh ngang, không ai xâm phạm ai. Đất Nam là của vua Nam, của con dân nước Nam.

 

“Rành rành định phận tại sách trời”

 

Địa phận đã chia, Nam Bắc hai vùng trời, đó là lẽ tự nhiên, không ai có thể chối cãi được, không bất cứ thế lực hay quốc gia nào có thể phủ nhận điều đó. Tinh thần yêu nước ấy sáng ngời bởi lòng tự tôn dân tộc, một ý thức về chủ quyền của quốc gia độc lập. Từng ngọn cỏ, bờ đê, từng tấc đất, đồng ruộng,… đều là của nước Nam, không một ai, không một dân tộc nào có quyền được xâm phạm vào bờ ấy. Đó là sự thật được thiên định, thuận ý trời được lòng người, là cốt lõi của chủ quyền dân tộc.

 

Thứ hai, tinh thần yêu nước ấy còn thể hiện ở niềm tin vào chính nghĩa, vào chiến thắng tất yếu của trời Nam trước quân xâm lược. Niềm tin vào ý chí chiến đấu của dân tộc tất sẽ thắng quân phi nghĩa kia. Bọn giặc hoành hành ngang nhiên, bất chấp đạo lí, bất chấp cả ý trời.

 

 ” Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?”

 

   Một câu hỏi như một lời nhắc nhở, cảnh cáo về hành động phi nghĩa. Đất Nam đang yên lành, nhân dân đang tự do, cớ sao lũ giặc lại bạo ngược sang chiếm lãnh thổ, một hành động toan tính, tàn ác, không được sự ủng hộ của bất kì ai. Xâm phạm vào đất của sông nước Nam là xâm phạm vào độc lập chủ quyền, vào lòng tự tôn của dân tộc luôn yêu chuộng hoà bình, đoàn kết và nhân ái. Là trái với lẽ tự nhiên, là đi ngược với ý trời. Nếu chúng vẫn cứ tiếp tục hành động tàn bạo như thế thì đó là tội ác không thể chấp nhận được, chắc chắn phải tự nhận, tự đem về mình thất bại thảm thương mà thôi:

 

 ” Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”

 

Tội ác của quân xâm lược khiến “trời không dung, đất không tha”, rồi lũ giặc ngạo mạn kia sẽ phải chịu khuất phục trước tình thần chiến đấu quật cường, trước sự đoàn kết và ý chí không gì lay chuyển nổi của nhân dân nước Nam mà thôi. Chính nghĩa mãi mãi sẽ luôn thắng gian tà, kẻ bại trận phải chấp nhận những đắng cay mà tội ác chúng gây ra. Đó là một niềm tin chiến thắng ngày mai cho đất nước, một sự tin tưởng mãnh liệt và thiết tha vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. Đồng thời, đó còn là lời tuyên ngôn kêu gọi tinh thần anh dũng đấu tranh của nhân dân.

 

Có thể nói tinh thần yêu nước luôn được đề cao và là kim chỉ nam trong mọi cuộc chiến. Tinh thần ấy có khi không nhất thiết phải súng đạn, gươm giáo, đao to, búa lớn,… mà chỉ bằng những lời thơ, những trang văn đã trở thành những vũ khí sắc bén khơi dậy lòng yêu nước, khiến cho quân giặc phải hoảng sợ, lung lay. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng điệu hào hùng, lời lẽ đanh thép, hùng hồn, văn phong cô đọng súc tích, Lí Thường Kiệt đã viết nên một áng văn bất hủ, xứng danh đời đời. Tác phẩm mãi là bài học cho con cháu về lòng yêu Tổ quốc, đất nước hiện tại và mai sau.

 

Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button