Queerbaiting là gì? Queerbaiting Có hại hay có lợi? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết này nhé!
1. Queerbaiting là gì?
Queerbaiting là một phương thức tiếp thị sử dụng nội dung có liên quan tới cộng đồng LGBTQ+ để “câu kéo” người xem. Từ này được kết hợp giữa “queer” (người nằm ngoài hệ nhị nguyên giới) và “bait” (mồi câu).
This post: Queerbaiting là gì? Queerbaiting Có hại hay có lợi?
Không khó để bắt gặp queerbaiting trong các sản phẩm như phim ảnh, ca nhạc và cả sách truyện. Thường thì trong các tác phẩm này, những nhân vật dị tính sẽ cư xử và hành động mập mờ (hay còn được gọi là hint), nhưng lại không bao giờ khẳng định về xu hướng tính dục của mình.
Queerbaiting nhận về nhiều chỉ trích khi thay vì giúp làm tăng tần số nhận diện của cộng đồng LGBTQ+, hình thức này lại đang củng cố và lan truyền những khuôn mẫu sáo rỗng và có hại.
Tại Việt Nam chúng ta bắt gặp queerbaiting qua cách các chương trình như “Người Ấy Là Ai?” sử dụng ngôn từ như “giới tính thứ 3” (thay vì cộng đồng LGBTQ+) để gây sự chú ý.
2. Nguồn gốc của queerbaiting?
Trong những năm 1950, queerbaiting được dùng để miêu tả các hành vi mang tính kỳ thị đồng tính trong chính trị và luật pháp. Trước đây, queerbaiting là một chiến thuật (bao gồm tống tiền, dụ dỗ) để tìm ra những người có xu hướng tính dục khác với tiêu chuẩn thời đó.
Những ví dụ về Queerbaiting
Có rất nhiều ví dụ về trò đùa trên các phương tiện truyền thông, và một trong những ví dụ phổ biến hơn trong văn học đã xảy ra trong Harry Potter, sau khi cuốn sách đã được xuất bản.
JK Rowling tuyên bố vào năm 2007 rằng cụ Dumbledore là người đồng tính và tỏ ra ngạc nhiên khi không ai đọc thấy sự kỳ lạ của cụ trong cuốn sách, mặc dù thực tế là bà đã không viết cụ một cách rõ ràng là kỳ quặc, và trên thực tế, bà đã mã hóa rõ ràng cụ là người kỳ dị.
Sau đó, khi loạt phim Harry Potter đã phát triển, JK Rowling đã tiếp tục từ chối giải quyết vấn đề giới tính của cụ Dumbledore một cách rõ ràng, mặc dù có nhiều cơ hội để làm điều này. Trên thực tế, khi cô ấy và David Yates, một trong những đạo diễn của Harry Potter, được hỏi về giới tính của cụ Dumbledore và nó sẽ được mô tả như thế nào trong Fantastic BeastsRowling tuyên bố rằng người hâm mộ nên “xem không gian này.” Nó không có nhiều kỳ lạ hơn thế.
Một ví dụ nổi tiếng khác của trò chơi queerbaiting trên các phương tiện truyền thông là trong chương trình Supernatural và các nhân vật của Dean và Castiel (ship được gọi là Destiel). Trong nhiều năm, chương trình ngày càng tập trung vào mối quan hệ giữa hai nhân vật này, đồng thời giữ cho tình trạng mối quan hệ của họ không rõ ràng. Đó là một mối quan hệ thuần túy hay một mối quan hệ kỳ lạ?
Trong khi người hâm mộ của con tàu cụ thể này thậm chí còn tăng lên, sự tập trung vào mối quan hệ cũng tăng lên… nhưng không có sự rõ ràng về động thái của họ được đưa ra. Trên thực tế, có rất nhiều điều ám chỉ sự kỳ lạ của Dean và Castiel được đưa vào chương trình, bao gồm cả việc tán tỉnh rõ ràng giữa các nhân vật, cùng với nhiều tài liệu tham khảo và trò đùa.
Các nhà sản xuất của chương trình thậm chí đã ám chỉ về sự kỳ lạ của các nhân vật trong các cuộc phỏng vấn, cho thấy có khả năng những nhân vật này trở nên kỳ lạ. Tuy nhiên, tính cách của Dean không bao giờ rõ ràng là kỳ quặc.
3. Vì sao queerbaiting phổ biến?
Tới khoảng 2010, cộng đồng mạng bắt đầu sử dụng queerbaiting như nghĩa hiện nay để chỉ ra các bộ phim (cụ thể là Sherlock) ngầm lợi dụng yếu tố đồng tính để câu khách. Từ này sau đó cũng đã được thêm vào từ điển Oxford.
Trong thời kỳ đầu của điện ảnh, các nhân vật đồng tính thường được “ngầm” xuất hiện để tránh những chỉ trích của xã hội và để lách luật điện ảnh. Bấy giờ, để ám chỉ một nhân vật là đồng tính nam, đạo diễn có xu hướng giới thiệu người này có thiên hướng nữ tính, yêu nghệ thuật và để khán giả tự hiểu. Khái niệm này gọi là queer coding.
Thứ tách biệt 2 khái niệm tưởng chừng giống nhau này chính là queerbaiting tồn tại chỉ để câu khách vì lợi nhuận. Để lấy ví dụ, điện ảnh Việt Nam thường sử dụng nhân vật đồng tính như yếu tố gây cười, tạo sự tò mò và tranh luận qua những cảnh nóng gợi dục.
Trong thị trường ca nhạc, một số ca sĩ Việt cũng sử dụng yếu tố đồng tính nam để câu kéo fan. Trong ngành giải trí, cụ thể hơn là K-Pop, queerbaiting xuất hiện dày đặc. Các thành viên nhóm nhạc nam “nhử” mồi cho fan (thường là theo yêu cầu của công ty quản lý) bằng những hành động thân mật, da chạm da (skin-ship). Các hành vi kiểu này nhìn chung được gọi là fan-service (dịch vụ dành cho fan).
Không chỉ xuất hiện trực tiếp trên những sân khấu mà các video âm nhạc queerbaiting giữa các thành viên nữ cũng xuất hiện nhiều hơn. Bên cạnh đó, một số nhóm nhạc cũng có thành viên được xây dựng theo xu hướng tạo cảm tình cho cộng đồng LGBTQ+. Những thành viên này có thể là người thuộc cộng đồng LGBTQ+ hoặc có phong thái tương tự như vậy.
Tất cả những yếu tố này suy cho cùng đều là cần câu lợi nhuận mà ngành công nghiệp âm nhạc Hàn sử dụng. Chỉ riêng việc những hành vi mập mờ của idol trên sân khấu cũng đã giúp người hâm mộ tạo ra hàng loạt fanfic, tranh ảnh ghép đôi. Không cần phải bỏ quá nhiều tiền để quảng bá, đây là cách ngành công nghiệp giải trí lợi dụng người hâm mộ để duy trì ngọn lửa danh vọng cho nhóm nhạc idol.
Trong bối cảnh hiện tại, vẫn có nhiều tranh cãi xoay quanh việc liệu một sản phẩm có queerbaiting hay không. Gần đây nhất chính là MV “Lost Cause” của Billie Elish bị chỉ trích với hình ảnh cô nằm trên giường cùng nhóm bạn nữ; hay MV “Break up with your boyfriend” của Ariana Grande. Khó có thể khẳng định được mục đích ban đầu của những sản phầm này có phải là để làm mồi nhử, hay đơn giản chỉ là thành phẩm sáng tạo của nghệ sĩ.
Suy cho cùng, chỉ khi nào hình ảnh của cộng đồng LGBTQ+ trên truyền thông được phủ sóng và miêu tả một cách đa dạng, chân thực, thì cần câu queerbaiting mới mất đi tác dụng của nó.
4. Queerbaiting và queer coding
Queerbaiting và queer coding thường bị nhầm lẫn với nhau. Có một điểm giống nhau giữa chúng: cả mã hóa queerbaiting và mqueer coding đều gợi ý về sự kỳ lạ và cả hai đều có thể có tác động tiêu cực.
Tuy nhiên, trong lịch sử, mã hóa đồng tính thường được sử dụng để khám phá giới tính khi điều này có thể không được cho phép. Queer coding tồn tại trong không gian trung lập và có thể được sử dụng cả tích cực và tiêu cực. Mặt khác, Queerbaiting chỉ được sử dụng để thu hút khán giả kỳ lạ vào một phần của phương tiện truyền thông và mục đích của nó là không bao giờ khám phá sự kỳ lạ một cách có ý nghĩa. Nó luôn có tác động tiêu cực.
Điều quan trọng là phải biết sự khác biệt giữa những thứ này và cách sử dụng lịch sử của chúng, đặc biệt là khi chúng ta đang sử dụng những thuật ngữ này để chỉ trích phương tiện truyền thông. Bởi vì, như chúng ta thấy, mã hóa người xếp hàng thường có thể hữu ích đối với những người sáng tạo người xếp hàng muốn thể hiện sự kỳ lạ trong công việc của họ nhưng có lẽ không thể làm như vậy vì kiểm duyệt hoặc vì họ đang cố gắng duy trì sự an toàn của chính mình với tư cách là người đồng tính.
5. Tìm hiểu về cộng đồng LGBTQ+
LGBT là một từ viết tắt của chủ nghĩađồng tính nữ,đồng tính nam, songtínhvàchuyển giới. Được sử dụng từ những năm 1990, thuyết khởi đầu, cũng như một số biến thể phổ biến của nó, có chức năng như mộtthuật ngữ chungchotính dục và bản dạng giới.
Thuật ngữ LGBT là sự chuyển thể của chủ nghĩa ban đầu LGB , bắt đầu thay thế thuật ngữ đồng tính nam (hoặc đồng tính nam và đồng tính nữ ) để chỉ cộng đồng LGBT rộng lớn hơn bắt đầu từ giữa đến cuối những năm 1980. Khi không bao gồm người chuyển giới, LGB ngắn hạn vẫn được sử dụng thay cho LGBT.
Nó có thể đề cập đến bất kỳ ai không dị tính hoặc không chuyển giới , thay vì chỉ dành cho những người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính hoặc chuyển giới. Để nhận ra sự bao gồm này, một biến thể phổ biến, LGBTQ , thêm chữ Q dành cho những người xác định là đồng tính hoặc đang thắc mắc về bản dạng tình dục hoặc giới tính của họ.
Thuật ngữ được sử dụng rộng rãi đầu tiên, đồng tính luyến ái , hiện là một thuật ngữ được sử dụng chủ yếu trong các bối cảnh khoa học, đã đôi khi mang hàm ý tiêu cực ở Hoa Kỳ.Đồng tính nam trở thành một thuật ngữ phổ biến trong những năm 1970.
Khi đồng tính nữ giả mạo danh tính công khai nhiều hơn, cụm từ đồng tính nam và đồng tính nữ trở nên phổ biến hơn. Một cuộc tranh cãi về việc liệu trọng tâm chính của mục tiêu chính trị của họ có nên là nữ quyền hay quyền của người đồng tính nam đã dẫn đến việc giải tán một số tổ chức đồng tính nữ, bao gồm Dau Daughter of Bilitis , được thành lập bởi Del Martin và Phyllis Lyon , nhưng đã tan rã . vào năm 1970 sau những tranh chấp về mục tiêu nào nên được ưu tiên. Vì bình đẳng là ưu tiên của các nhà nữ quyền đồng tính nữ , sự chênh lệch về vai trò giữa nam và nữ hoặc mông và nữ được coi là gia trưởng. Những người ủng hộ nữ quyền đồng tính nữ đã tránh xa việc đóng vai giới đã phổ biến trong các quán bar cũng như chủ nghĩa sô vanh được nhận thức của những người đồng tính nam ; nhiều nhà hoạt động nữ quyền đồng tính nữ đã từ chối làm việc với những người đồng tính nam hoặc lấy lý do của họ.
Những người đồng tính nữ giữ quan điểm chủ nghĩa về bản chất rằng họ sinh ra là đồng tính luyến ái và sử dụng mô tả đồng tính nữ để định nghĩa sự hấp dẫn tình dục thường coi những ý kiến ly khai của những người theo chủ nghĩa nữ quyền-đồng tính nữ là bất lợi cho sự nghiệp bảo vệ quyền của người đồng tính. Người song tính và chuyển giới cũng tìm kiếm sự công nhận là những nhóm hợp pháp trong cộng đồng thiểu số lớn hơn.
Vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, sau sự phấn khích của sự thay đổi sau hành động nhóm trong cuộc bạo loạn Stonewall năm 1969 ở Thành phố New York , một số người đồng tính nam và đồng tính nữ trở nên ít chấp nhận người song tính hoặc chuyển giới hơn . Các nhà phê bình nói rằng những người chuyển giới đang hành động theo khuôn mẫu , và những người song tính chỉ đơn giản là những người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ, những người ngại công khai và thành thật về danh tính của họ. Mỗi cộng đồng đã phải vật lộn để phát triển bản sắc riêng của mình bao gồm cả việc liệu và làm thế nào, để phù hợp với giới tính khácvà các cộng đồng dựa trên tình dục, đôi khi không bao gồm các nhóm phụ khác; những xung đột này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Các nhà hoạt động LGBTQ và các nghệ sĩ đã tạo ra các áp phích để nâng cao nhận thức về vấn đề này kể từ khi phong trào bắt đầu.
Từ khoảng năm 1988, các nhà hoạt động bắt đầu sử dụng chủ nghĩa LGBT ở Hoa Kỳ. Phải đến những năm 1990, trong phong trào này, người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới mới được tôn trọng bình đẳng. Điều này đã thúc đẩy một số tổ chức áp dụng những cái tên mới, như Hiệp hội Lịch sử GLBT đã làm vào năm 1999. Mặc dù cộng đồng LGBT đã chứng kiến nhiều tranh cãi liên quan đến việc chấp nhận phổ biến các nhóm thành viên khác nhau (đặc biệt là các cá nhân song tính và chuyển giới, đôi khi bị gạt ra ngoài lề bởi cộng đồng LGBT lớn hơn), thuật ngữ LGBT đã là một biểu tượng tích cực của sự hòa nhập .
Mặc dù thực tế là LGBT về danh nghĩa không bao gồm tất cả các cá nhân trong các cộng đồng nhỏ hơn (xem Các biến thể bên dưới), thuật ngữ này thường được chấp nhận để bao gồm những người không được xác định cụ thể trong chủ nghĩa viết tắt bốn chữ cái. Nhìn chung, việc sử dụng thuật ngữ LGBT theo thời gian đã hỗ trợ phần lớn trong việc đưa những cá nhân bị thiệt thòi vào cộng đồng chung.
Video về Queerbaiting
Kết luận
Hy vọng bài viết đã giúp các bạn biết được Queerbaiting là gì? Queerbaiting Có hại hay có lợi? Cảm ơn bạn đã theo dõi!
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Tổng Hợp