Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
This post: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng tiêu biểu
I. Dàn ý Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Chuẩn)
1. Mở bài
– Khái quát nền văn học Việt Nam giai đoạn sau cách mạng.
– Giới thiệu hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng.
>> Tham khảo những cách Mở bài Tây Tiến hay.
2. Thân bài
a. Sơ lược về binh đoàn Tây Tiến và hoàn cảnh sáng tác.
– Binh đoàn Tây Tiến: Thành lập năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Bắc, địa bàn hoạt động trải dài vùng Tây Bắc, Sầm Nứa (Lào), về miền tây Thanh Hóa.
– Hoàn cảnh sáng tác: Vào cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi tác giả kết thúc nhiệm vụ tại binh đoàn và chuyển sang đơn vị khác.
b. Hình tượng người lính hiện lên thông qua nỗi nhớ về một miền Tây Bắc xa xôi (14 câu thơ đầu):
– Phân tích cung đường hành quân đầy gian lao nguy hiểm nhưng vẫn ẩn hiện nhiều vẻ đẹp thơ mộng trữ tình.
=> Hình tượng người lính chiến kiên cường, bất khuất trong những năm đầu chiến đấu, đồng thời cũng thấy được tinh thần lạc quan, yêu đời, vẻ đẹp hào hoa lãng mạn trong tâm hồn người lính.
– Khắc họa vẻ bi tráng, sự hy sinh mất mát của người lính Tây Tiến (Anh bạn dãi dầu…bỏ quên đời) và những nỗi sợ (Chiều chiều oai linh…trêu người)
=> Tô đậm vẻ đẹp kiêu hùng, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng của người lính.
c. Hình tượng người lính thông qua những nét vẽ về đời sống sinh hoạt:
– Có một cuộc sống tinh thần rất sôi nổi, ở đó ta thấy hiện lên hình ảnh người lính chiến tạm quên đi những khổ cực, những hy sinh mất mát, những đớn đau trong chiến đấu để hòa mình vào cuộc vui, say sưa nhảy múa bên đống lửa bập bùng.
– Là những con người có cảm xúc, cũng ham thích sự náo nhiệt, rộn ràng, đặc biệt những người lính Tây Tiến lại xuất thân từ mảnh đất Hà Thành thế nên trong tầm suy nghĩ, họ luôn có cái gì đó rất hào hoa và lãng mạn.
d. Hình tượng người lính chiến với tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất, lý tưởng cao đẹp được xây dựng bằng khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn sâu sắc:
– Hai nét vẽ “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá” đã tái hiện được một cách chân thực và sống động hiện trạng quân đội ta những năm đầu kháng chiến đầy gian khổ, bệnh tật và tình hình chiến đấu gian khổ khiến người lính xơ xác, tiêu điều.
– Tuy nhiên họ vẫn mang trong mình khí thế chủ động thể hiện qua hình ảnh “không mọc tóc”, “dữ oai hùm”, khí khái hiên ngang, dùng chính hình dạng kỳ dị làm cho đoàn quân thêm phần mạnh mẽ, dữ dằn.
– Tượng đài người lính Tây Tiến còn được khắc họa bằng những nét vẽ về một tâm hồn mộng mơ, giàu sức trẻ, nỗi nhớ quê hương, khao khát về tình yêu
=> Thể hiện đúng bản chất của con người, khẳng định ngoài tình yêu quê hương, yêu đất nước thì tình cảm cá nhân cũng chính là một trong những nguồn động lực to lớn để thúc đẩy và nâng cao tinh thần chiến đấu đấu.
– Lý tưởng cao đẹp, “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” bất chấp sự hy sinh, mất mát để giành về cho Tổ quốc thân yêu sự độc lập và tự do.
3. Kết bài
– Cảm nhận về hình tượng người lính Tây Tiến.
II. Bài văn mẫu Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Chuẩn)
Nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là một nền văn học nổi bật với khuynh hướng đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn với sự trưởng thành của nhiều nhà văn, nhà thơ bước ra từ chiến trường cùng nhiều các tác phẩm văn học xuất sắc. Trong đó phải kể đến các tác giả nổi bật như Tố Hữu, Chính Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Chế Lan Viên,… Đặc biệt khi nói về sự vất vả, ác liệt của chiến trường biên giới phía Bắc những năm đầu kháng chiến chống Pháp thì nổi bật có sự xuất hiện của cây bút tài hoa, đại diện cho những người lính xuất thân từ tầng lớp trí thức Hà thành lên đường ra chiến trận. Tây Tiến được viết bằng giọng thơ hào hùng, bi tráng mang đậm cảm hứng lãng mạn, hào hoa và khuynh hướng sử thi, với hình tượng người lính Tây Tiến oai hùng, mạnh mẽ, hiên ngang vượt qua mọi sự khắc nghiệt của chiến trường miền Tây Bắc, một lòng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc.
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, với lực lượng chủ yếu là các thanh niên Hà thành, nhiều nhất là các học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường tiến thẳng ra tiền tuyến khốc liệt. Binh đoàn được phân công một nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới phía Bắc đồng thời đánh tiêu hao lực lượng của thực dân Pháp tại đây, với địa bàn hoạt động rất rộng lớn dường như bao quát cả vùng biên giới phía Bắc, thậm chí mở rộng sang cả vùng Sầm Nứa của nước bạn. Có thể thấy rằng đó là một điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, đặc biệt trong những năm đầu kháng chiến, đất nước giành được chính quyền không bao lâu thế nên hầu như quân tư trang rất thiếu thốn, thuốc men và cả vũ khí đều vô cùng eo hẹp. Giữa chốn rừng thiêng nước độc, những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, số lượng chiến sĩ hy sinh vì bệnh tật thậm chí còn nhiều hơn là vì đạn, bom của giặc thù, cả một vùng biên giới phía Bắc nơi nào cũng in dấu xương máu của các anh ngã xuống. Thế những dẫu có nhiều vất vả, gian lao nhưng người lính Tây Tiến vẫn một lòng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc, đặc biệt là ở họ vẫn luôn giữ cho mình chất lãng mạn và hào hoa trong tâm hồn. Tây Tiến được sáng tác vào cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa phương hiền hòa bên cạnh dòng sông Đáy thuộc tỉnh Hà Đông cũ. Bài thơ là dòng hồi tưởng của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến đã qua, lắm oai hùng nhưng cũng nhiều gian lao vất vả, đặc biệt thông qua đó hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên với nhiều những nét đặc sắc, bao gồm nỗi nhớ, vẻ đẹp tâm hồn và quan trọng nhất là tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất.
Đầu tiên hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong nỗi nhớ về vùng núi rừng Tây Bắc xa xôi, lắm gian nan hiểm trở.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Sự hồi tưởng về quá khứ của tác giả thông qua một loạt các địa danh nổi tiếng như Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát gợi ra cho độc giả về một cung đường hành quân rộng lớn bao la, ẩn chứa nhiều những khó khăn vất vả của đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng không phải vì sự mệt mỏi, khắc nghiệt mà người lính nỡ lòng bỏ quên đi những kỷ niệm xưa cũ mà ngược lại những kỷ niệm ấy đã trở thành ký ức đáng quý không thể xóa nhòa. Để mỗi khi nhắc về đó luôn là một nỗi nhớ “chơi vơi”, mang cảm giác trơ trọi, chống chếnh, hẫng hụt khi phải xa nơi chiến trường mà một thời mà các anh đã từng gắn bó, đã từng bỏ lại máu xương của đồng đội, từng để lại nước mắt mồ hôi của chính bản thân và cả những dấu chân quân hành đầy bi tráng, hiên ngang. Những ấn tượng sâu đậm về sương và dốc núi đã mở ra cho người đọc về những khó khăn vất vả mà người lính Tây Tiến phải vượt trong hơn một năm chiến đấu ở chiến trường Tây Bắc. “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, hình ảnh sương ấy gợi liên tưởng về những câu thơ của Chính Hữu “Đêm nay rừng hoang sương muối/Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/Đầu súng trăng treo”, sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc được diễn tả bằng hình ảnh sương mù vừa lạnh vừa mờ mịt chắn tầm nhìn. Trước quang cảnh ấy, thực tế rằng không có con người nào mà không cảm thấy mệt mỏi, chùn bước chân, thế nhưng trong tầm mắt lãng mạn và tinh thần lạc quan thì người lính Tây Tiến lại nhìn ra một vẻ đẹp rất đặc biệt “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hình ảnh sương kéo đến ùn ùn kết thành hình những bông hoa trắng ngay giữa núi rừng hùng vĩ tạo nên một cảm giác thơ mộng, trữ tình và tinh thần của người lính lại càng thêm phấn chấn, hăng hái trước cảnh nên thơ, bất chấp những khó khăn đang chờ.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Ngoài hình ảnh sương thì hình ảnh dốc cũng là một đặc trưng lớn nhất của chiến trường Tây Bắc, địa hình quanh co khúc khuỷu, lên xuống chập chùng “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” nhiều lần làm bước chân của người lính chiến rã rời, đặc biệt sự heo hút, vắng lặng của chốn rừng thiêng nước độc lại càng thêm thách thức tinh thần của đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng giữa cái vắng lặng, hiểm trở người lính chiến vẫn nhận ra, hoặc đúng hơn là chính tinh thần lạc quan, tươi trẻ của những người con xứ Hà thành đã đủ sức biến chứng thành cảm hứng lãng mạn, có chút hồn nhiên, dí dỏm trong mấy từ “súng ngửi trời”. Hơn thế nữa họ vẫn luôn tìm cho mình chút hơi ấm của đất nước, của con người, cảm nhận sự yên bình trong bão tố bằng hình ảnh xóm làng, nhà cửa thân thuộc trong câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, để từ đó lần nữa vực dậy tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, vì nhân dân vì đất nước. Không chỉ vậy, những cảm hứng lãng mạn trong chặng đường hành quân gian khổ đã làm vơi bớt đi phần nào sự mệt mỏi, điều kiện khắc nghiệt của chiến trường những năm đầu kháng chiến. Vẻ đẹp của người lính trong nỗi nhớ là nằm ở chỗ đó, tuy không quá rõ ràng nhưng độc giả vẫn có thể cảm nhận được bằng những vần thơ rất đỗi tài hoa.
Tuy nhiên Quang Dũng sẽ không chỉ đem mình cảm hứng lãng mạn vào thơ, nếu như vậy thì hình tượng người lính lại trở nên tầm thường và không có gì đặc sắc, ông tiếp tục khắc họa người lính chiến trong nỗi nhớ bằng những hình ảnh bi tráng, bằng những nỗi sợ thực tế ở chiến trường.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng viết rất nhẹ nhàng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, có người từng cho rằng có lẽ là hình ảnh người lính chiến ngủ sau những chặng đường khó khăn gian khổ, nhưng nhìn vào thực tế khốc liệt của chiến trường miền tây thì đó là sự hy sinh của một người lính Tây Tiến, anh ra đi trong giấc ngủ ngàn thu, tay vẫn ôm lý tưởng chiến đấu là súng và mũ. Nhà thơ đã tìm những cái cách nói giảm nói tránh để giảm bớt đi sự đau thương, mất mát trong chiến đấu, cũng như khắc họa một vẻ đẹp khác của người lính Tây Tiến ấy là xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Không chỉ vậy hình ảnh oai hùng, anh dũng của đoàn quân Tây Tiến còn ẩn hiện sau tiếng gầm thét của thác nước, của những loài hùm beo hổ báo ngự trị nơi núi rừng, bởi dẫu có gặp biết bao những nguy hiểm rình rập thì người lính Tây Tiến vẫn vững bước hành quân, vẫn giữ cho mình một tinh thần thép, họ vẫn đi hết chiến trường miền Tây Bắc, sang cả vùng Sầm Nứa của Lào, rồi vòng về vùng tây Thanh Hóa, có gì có thể cản được bước chân oai hùng ấy đâu.
Và giữa những tháng ngày hành quân gian khổ người ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của người chiến sĩ trong lúc hành quân gian khổ, mà còn thấy hình tượng của người lính trong những lúc sinh hoạt đời thường. Mà ở đó vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, hồn nhiên của những chàng thanh niên Hà thành, mang theo hành trang còn thơm mùi mực bút được thể hiện một cách rõ ràng và tinh tế bằng cảm hứng lãng mạn sâu sắc.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Bên cạnh cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt thì họ cũng có một cuộc sống tinh thần rất sôi nổi, dù rằng điều này không thường xuyên diễn ra, ở đó ta thấy hiện lên hình ảnh người lính chiến tạm quên đi những khổ cực, những hy sinh mất mát, những đớn đau trong chiến đấu để hòa mình vào cuộc vui, say sưa nhảy múa bên đống lửa bập bùng. Họ cũng là những con người có cảm xúc, cũng ham thích sự náo nhiệt, rộn ràng, đặc biệt những người lính Tây Tiến lại xuất thân từ thủ đô thế nên trong tầm suy nghĩ, họ luôn có cái gì đó rất hào hoa và lãng mạn. Người lính chiến cũng buông lỏng tinh thần, thấy yêu đời, thấy trẻ trung khi được tiếp xúc với những cô gái vùng cao xinh đẹp duyên dáng, trong những điệu múa, những nụ cười trong trẻo, điệu bộ “e ấp”, trong tiếng nhạc, tiếng khèn dân tộc vừa đầm ấm, vừa có phần mới mẻ. Cuộc vui lễ hội sau những ngày tháng chiến đấu kiên cường vất vả đã để lại trong trái tim người chiến sĩ những niềm vui, niềm hạnh phúc sung sướng khó tả, đó là cảm giác lâng lâng, thi vị, hồn người bỗng hóa thơ. Và người lính Tây Tiến lại mang trong mình một nỗi nhớ khác, nỗi nhớ thi vị và trữ tình không chỉ với con người mà với cả thiên nhiên thơ mộng trong những câu thơ rất lãng mạn.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”
Đó là về hình tượng người lính trong nỗi nhớ chiến trường, trong đời sống sinh hoạt tinh thần, nhưng có lẽ nổi bật và đáng chú ý nhất về hình tượng người lính Tây Tiến thì phải kể đến những câu thơ còn lại. Mà ở đó khuynh hướng sử thi trong tạo hình nhân vật trở nên nổi bật và đặc sắc hơn cả, kết hợp với cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng người lính Tây Tiến trở thành tượng đài bi tráng và bất tử của nền văn học Việt Nam những năm 1945-1975.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Bằng hai nét vẽ “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá” nhà thơ Quang Dũng đã tái hiện được một cách chân thực và sống động hiện trạng quân đội ta những năm đầu kháng chiến đầy gian khổ. Bệnh tật, những cơn sốt rét rừng khủng khiếp đã hành hạ những người lính chiến, để lại một hình ảnh có vẻ hơi kỳ dị “đoàn quân không mọc tóc”, cùng với làn da xanh xao, xám ngắt như màu lá lạnh lẽo chốn núi rừng hoang vu. Có thể nói rằng Quang Dũng thường phát huy cảm hứng lãng mạn trong thơ mình một cách dày đặc thế nhưng chỉ riêng những nét vẽ này Quang Dũng lại thẳng thắn, không trốn tránh sự thật mà phơi bày ra cái khắc nghiệt của chiến trường miền Tây Bắc những năm 1947-1948. Mà sự khắc nghiệt này cũng đã nhiều lần được các nhà thơ cùng thời tái hiện, ví như Chính Hữu “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/Rét run người vầng trán ướt mồ hôi” hay Tố Hữu với vần thơ “Giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ”, đó là ký ức không thể nào quên đối với người lính Tây Tiến. Và trong cái hiện thực vẫn tồn tại cái lãng mạn, Quang Dũng không để hình tượng người lính chiến ở vị trí bị động trước khó khăn thay vào đó bằng bút pháp lãng mạn, phóng khoáng ông đã đặt hình ảnh người lính Tây Tiến vào tầm vóc chủ động. Không phải là sốt rét đến nỗi không mọc tóc (dù đó là sự thực) mà bằng ngòi bút tinh tế ông đã vẽ lại một nét thành “không mọc tóc”, đoàn quân chủ động không mọc tóc để tạo cho mình một hình hài đặc biệt, dữ dằn đương đầu với chiến sự. Màu xanh xám của da dẫu là vì bệnh tật hành hạ thế nhưng nó vẫn ẩn chứa một vẻ mạnh mẽ, kiên cường, oai hùng, khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Hiện thực đau thương nhưng bằng đôi mắt tài hoa, phóng khoáng, lãng mạn của Quang Dũng, nó đã khoác lên mình một vẻ hào hùng, bi tráng và mang tầm vóc sử thi của thời đại. Ẩn chứa bên trong cái ngoại hình bi tráng, dữ dằn ấy là sức mạnh nội tâm của người lính chiến, bắt nguồn từ hình ảnh “đoàn binh” gợi sự đông đúc, tinh thần đoàn kết, khí thế ra trận mạnh mẽ.
Bên cạnh những nét vẽ về một tâm hồn kiên cường, bất khuất thì tượng đài người lính Tây Tiến còn được khắc họa bằng những nét vẽ về một tâm hồn mộng mơ, giàu sức trẻ. Trong những đêm ôm súng không ngủ trên đất khách, người lính chiến đã hướng tầm mắt, hướng tâm hồn mình về với Tổ quốc thân yêu, về với quê hương Hà thành nơi các anh đã gửi lại bao kỷ niệm về một thời áo trắng, bút vở thân yêu. Và ở đó còn có cả bóng dáng những cô gái Hà Nội dịu dàng, duyên dáng, là tình yêu, là nỗi nhớ của những chàng thanh niên xa quê hương chiến đấu. Xét thấy đây là một câu thơ rất tinh tế và nó phản ánh đúng bản chất của con người, không phân biệt là tiểu tư sản hay là nông dân thì trong tâm hồn mỗi một người đều có những nhu cầu tình cảm, nhu cầu hạnh phúc, cũng chính vì lẽ đó thì ngoài tình yêu quê hương, yêu đất nước thì tình cảm cá nhân cũng chính là một trong những nguồn động lực to lớn để thúc đẩy và nâng cao tinh thần chiến đấu đấu, chứ không phải là làm suy sụp hay gieo rắc tính ủy mị trong lòng quân như những quan niệm trước đây.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình tượng người lính Tây Tiến tiếp tục được khắc họa bằng những nét vẽ về lý tưởng và khát vọng chiến đấu cao đẹp, bất chấp sự hy sinh, mất mát để giành về cho Tổ quốc thân yêu sự độc lập và tự do. “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” đó là hiện thực tàn khốc của chiến trường, nhưng bằng việc dùng những từ Hán việt trong câu thơ của mình thì ý thơ trở nên trang trọng, cổ kính hơn hẳn, bớt đi cái sự thê lương, ảm đạm, kéo về sự hào hùng, bi tráng nhưng không bi lụy trong chiến đấu. Đọc câu thơ tiếp “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nó như là một lời thề sắt son, quyết tâm vì Tổ quốc mà hy sinh cả đời trai trẻ, họ đã xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, điều đó càng tô đậm nên vẻ đẹp sử thi anh hùng của người lính Tây Tiến. Đặc biệt hình ảnh hy sinh mất mát lại càng làm nổi bật nên hiện thực và sự oai hùng trong chiến đấu của bộ đội ta “Áo bào thay chiếu anh về đất”, nó xuất phát từ việc những người lính lần lượt nằm xuống trên chiến trường, thế nhưng vì hoàn cảnh thiếu thốn, họ buộc phải ở lại nơi đất lạ cùng với một manh chiếu bó thây. Tuy nhiên với ngữ điệu thơ nhẹ nhàng, trầm thấp Quang Dũng không đem đến nỗi đau thương, bi lụy mà thay vào đó là cảm giác tự nguyện, tự nghĩa của những người anh hùng, họ đến và chiến đấu hết mình rồi về với đất mẹ thiêng liêng với một tâm thế thanh thản, hiên ngang vì hoàn thành sứ mệnh trả nợ nước, trả nợ cho đời, họ chẳng còn gì nuối tiếc. Hình ảnh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” tựa như là khúc nhạc hùng tráng, tiễn đưa người lính chiến về với thế giới bên kia, con người cố kìm nén nỗi đau, thế nhưng thiên nhiên là chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương mất mát đến giờ phút này cũng phải bật ra tiếng thét bi tráng, vang vọng cả đất trời.
Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ đã được Quang Dũng khắc họa một cách tài tình bằng những nét vẽ đậm nhạt khác nhau, kết hợp tính nhạc cùng với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, tạo nên một tượng đài bi tráng và bất tử của nền văn học Việt Nam hiện đại. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp của những người con anh hùng trong kháng chiến thông qua nhiều khía cạnh khác nhau, từ sự kiên cường trong điều kiện đấu tranh gian khổ, tâm hồn tươi trẻ, mơ mộng, đến lý tưởng và sự hy sinh vĩ đại trong cuộc kháng chiến anh hùng của cả dân tộc.
———————–
Cùng với bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng trên đây, các em học sinh có thể tham khảo một số đề bài khác của bài tập làm văn số 3, Ngữ văn lớp 12 như: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta…. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.” (Việt Bắc, Tố Hữu), Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm) có nét tương đồng với những lời ca dao nào? Phân tích ngắn gọn ý nghĩa câu thơ này trong sự đối chiếu, so sánh với những bài ca dao mà anh (chị) đã liên tưởng, Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất nước (trong trường ca Mặt Đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục