Đề bài: Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà
This post: Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà
3 bài văn mẫu Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà
1. Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà, mẫu số 1:
Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài hát theo các làn điệu dân ca. Những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn… được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những đề tài lịch sử, những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.
Đoạn trích bài thơ “Hai chữ nước nhà” gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập “Bút quan hoài”. Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng của mình là ”Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu”. Qua đó, ta cảm nhận được “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa che thực dân Pháp. Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào máu lửa, chúng đã bắt cha con Hồ Quý Ly và một số đại thần, trong đó có Nguyền Phi Khanh giải về Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về “Hai chữ nước nhà”, về mối thù nhà nợ nước.
3. Phần đầu, tác giả gợi lên cảnh đất nước đau thương (dưới ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: ”mây sầu ảm đạm”, ”gió thảm đìu hiu”, “hổ thét chim kêu”… Cảnh vật, núi sông như mang nỗi đau của con người. Cả một không gian rộng lớn từ “chốn ải Bắc” đến “cõi giời Nam” và “khắp bốn bể’ đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:
“Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu…”
Bài văn Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải
Trước thảm cảnh “vong quốc”, người cha già trên con đường đi đày ngốn ngang nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: “bất bình”, “hạt máu nóng thấm quanh hồn nước”, “tầm tã châu rơi” đã nói lên một cách cảm động “di hận” của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:
‘Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên”.
Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán: “Anh hùng di hận kỉ thiên niên”, nghĩa là người anh hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phán đầu bài “Hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã nói lên thật xúc dộng nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi “di hận” của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.
2. Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con.
Nhớ “Hai chữ nước nhà” là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao ”anh hùng hiệp nữ” như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn… Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:
“giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!”.
Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân “cuồng Minh”:
“Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn (…)
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu”…
Những từ ngữ hình ảnh: “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông”,
“thành tung quách vỡ”, “đất khóc giời than”, “xây khói uất”, “vật cơn sầu”… tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi đau nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về “Bình Ngô đại cáo”, đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân, đã muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không dầm núi…”.
Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như “xé tâm can”. Càng đau đớn, càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
“Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?”.
Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước.
3. Tám câu trong phần cuối đoạn trích vừa nói lên bi kịch của người cha: “tuổi già sức yếu”, “sa cơ đành chịu bó tay”…, vừa trông cậy vào con để trả thù nhà, rửa hận nước: “Giang sơn gánh vác sau này cậy con…”. Cha thiết tha dặn con lần cuối: hãy “vì nước”, hãy “nhớ tổ tông”, hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là “Hai chữ nước nhà”, đó là những lời huyết lệ:
“Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…”.
“Hai chữ nước nhà’ là một bài thơ hay và cảm động. Nó nói lên một cách hàm súc, cô đọng nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. “Hai chữ nước nhà” vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ nhũng cặp câu thất ngôn đối nhau đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản sắc của Á Nam.
Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Hai chữ nước nhà” đã làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.
2. Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà, mẫu số 2:
Á Nam Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Á Nam Á Nam Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào.Bài thơ nổi bật và để lại nhiều ấn tượng nhất của tác giả có lẽ là ” Hai chữ nước nhà”. Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lòng và trái tim yêu nước của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người cha là Nguyễn Phi Khanh dặn dò con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình. Đoạn trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát. Đây là đoạn trích trong tập “Bút Quan hoài” sáng tác vào năm 1926. Để phân tích cụ thể tác phẩm chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần. Phần đầu:Có 8 câu là cảnh chia li ở nơi biên giới, giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh – Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm, thê lương. Phần thứ hai: gồm 20 câu tiếp theo là lời người cha kể về dòng giống Lạc Hồng, về lịch sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc và những mất mát đau thương đất nước đang phải gánh chịu. Phần thứ ba:gồm 8 câu, tác giả đã để cho người cha dặn dò người con, là nói lên niềm tin tha thiết về đất nước.
Mở đầu bài thơ gợi nên khung cảnh nơi chia ly không thể trở về của người cha, tạo không khí bao trùm cả bài thơ:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Văn mẫu Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà hay nhất
Mở đầu, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm. Những hình ảnh nhân hóa rất điêu luyện : “mây sâu ảm đạm”, “gió thảm đìu hiu” “hổ thét chim kêu”… Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian rộng lớn từ “chôn ải Bắc” đến “chốn ải Nam” và “khắp bốn bể” đều chung một niềm đau với con người nơi đây. Từng câu thơ như thấm đầy nước mắt, giọng thơ thiết tha não nùng: “Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước/ Chút thân tàn lần bước dậm khơi / Trông con tầm tã châu rơi” . Hình ảnh người cha già với chút thân tàn đang lê bước tới chốn lưu đày khiến người con rất đỗi đau lòng. Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le, con muốn đi theo để phụng dưỡng cha, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Phần thứ hai là lời dặn từ tâm can của Nguyễn Phi Khanh giành cho Nguyễn Trãi . Nhớ “hai chữ nước nhà” là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao “anh hùng hiệp nữ” .., là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Phải thật khâm phục tác giả đã hóa thân mượn lời bày tỏ nỗi lòng thật tài tình. Nhưng sau đó là những câu thơ bày tỏ bức tranh thê thảm của non sông đất nước, giọng thơ trở nên căm phẫn hơn hết:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau…
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả sử dụng tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa “xương rừng máu sông”, lòng dân căm phẫn. Những từ ngữ hình ảnh “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông”, “thành tung quách vỡ”, “đất khóc giời than”, “xây khối nát”, “vật cơn sầu”… tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Ngoài ra tác giả đã sử dụng những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như : “kể sao xiết kể”, “xé tâm can” , “thương tâm” , “lầm than” và những hình ảnh gây xúc động “Ngậm ngùi đất khóc giời than” đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ.
Tám câu cuối cùng là lời kêu gọi, dặn dò của người cha trước lúc từ biệt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Thay lời cho người cha, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết nên những lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho Nguyễn Trãi. Người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà. Gánh nặng sơn hà, xã tắc xin uỷ thác cho thế hệ sau này với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng .
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Á Nam Trần Tuấn Khải đã thành công khi tạo cảm xúc sâu sắc trước tâm sự yêu nước mãnh liệt của người cha, cũng là tâm sự yêu nước mãnh liệt của nhà thơ để tác phẩm của ông mãi đi vào lòng người đọc sau này.
3. Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà, mẫu số 3:
Đoạn trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát. Đây là đoạn trích trong tập “Bút Quan hoài” sáng tác vào năm 1926.
Tác giả đã mượn đề tài có thật trong lịch sử là Nguyễn Phi Khanh – cha của Nguyễn Trãi – bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Cuộc chia tay đẫm lệ giữa hai cha con ở “Chốn ải Bắc” – một địa phận thuộc tỉnh Lạng Sơn của nước ta giáp với Trung Quốc.
Đoạn trích có thể chia làm 3 phần:
Phần đầu:Có 8 câu, tác giả gợi nên cảnh chia li ở nơi biên giới. Cảnh chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh – Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm, thê lương!
Cha đã già phải đem “chút thân tàn lần bước dặm, khơi”, còn con thì ở lại với non nước trong cảnh “cõi trời Nam gió thổi đìu hiu”.
“Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên”.
Trần Tuấn Khải đã mượn lời nhân vật lịch sử nói lên nỗi đau “nước mất nhà tan”. Dĩ nhiên trong hai câu thơ trên còn gửi gắm vào đó một niềm tin bởi vì có niềm tin mới khuyên bảo.
Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà ngắn gọn
Phần thứ hai: gồm 20 câu, tác giả gợi lại qua lời người cha về dòng giống Lạc Hồng, về lịch sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc, như một thiên định:
“Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì?”.
Lời dặn của người cha như bừng bừng căm giận. Giọng nói trở nên khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân xâm lược Minh. Trên mảnh đất tuy có lúc suy thịnh đổi thay nhưng vẫn có những Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì”-
Rõ ràng người cha đã kích động lòng tự hào, tự tôn dân tộc để người con cầm lấy bút mà ghi tội ác của giặc:
“Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn…”.
Hãy cầm lấy gươm để thanh toán nỗi căm uất:
“Khói Hùng Lĩnh, như xây khói uất Sông Hồng
Giang nhường vật cợn sầu
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà!”.
Lời dặn dò đẫm lệ, nức nở trong đau thương nhưng đã khơi dậy ý chí chiến đấu, quyết tâm giữ lấy giang sơn.
Phần thứ ba: gồm 8 câu, tác giả đã để cho người cha than thở, nhưng chủ yếu là nói lên niềm tin tha thiết thấm sâu vào trái tim khối óc người con:
“Giang san gánh vác sau này cậy con”.
“Hai chữ nước nhà” là bài thơ hay, rất gợi cảm. Ý nghĩa sâu xa của nó còn là kích động lòng căm thù với bọn xâm lược Pháp, nói lên khát vọng tự do của nhân dân Việt Nam.
Ngôn ngữ và hình ảnh trong thơ rất trong sáng giản dị, nhưng nhà thơ đã dùng những cặp câu thơ thất ngôn đối nhau và sử dụng những hình ảnh nhân hóa rất đậm nét. Vì vậy, ở Á Nam Trần Tuấn Khải có một bút pháp nghệ thuật có vẻ dân dã nhưng rất độc đáo. Vì vậy ngay từ thời Pháp thuộc, bài thơ đã làm cho lòng người phải xúc động không ngớt.
—————-HẾT——————
Bên cạnh Phân tích trích đoạn 36 câu thơ trong bài thơ Hai chữ nước nhà các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích nội dung và nghệ thuật thể hiện của đoạn trích Hai chữ nước nhà hay phần Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà nhằm củng cố kiến thức của mình.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)