Giáo dục

Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt

Cùng Mầm Non Ánh Dương tìm hiểu một số bài văn mẫu phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt.

Dàn ý phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt

Dàn ý số 1:

1. Mở bài:

This post: Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt

+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

– Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đã có Vợ nhặt của Kim Lân.

+ Nhận xét khái quát:

– Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo.

– Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

2. Thân bài:

a. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện.

+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.

+ Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa

b. Trong bối cảnh ấy, Tràng, nhân vật chính của tác phẩm “nhặt” được vợ. Đó là một tình huống độc đáo

+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ “ế” vợ rất cao:

– Ngoại hình xấu, thô.

– Tính tình có phần không bình thường.

– Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.

– Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.

– Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.

+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).

+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ

– Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.

– Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên

– Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn ” ngờ ngợ”.

+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí

– Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì “người ta” không thèm lấy một người như Tràng.

– Tràng lấy vợ theo kiểu “nhặt” được.

c. Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói

+ Cái đói dồn đuổi con người.

+ Cái đói bóp méo cả nhân cách.

+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.

+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.

d. Giá trị nhân đạo:

+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.

– Tràng rất trân trọng người “vợ nhặt” của mình.

– Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ nhặt”

– Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.

+ Con người huôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:

– Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.

– Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.

– Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.

3. Kết bài:

+ Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

+ Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Dàn ý số 2:

1. Mở bài

– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

+ Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

+ Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân.

– Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề : Tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt.

2. Thân bài

* Khái niệm tình huống truyện

– Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà tại đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.

– Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.

* Phân tích tình huống nhặt vợ

– Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:

+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.

+ Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.

– Tóm tắt tình huống: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…

– Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:

+ Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ “ế” vợ rất cao:

  • Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
  • Tính tình có phần không bình thường.
  • Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
  • Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
  • Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.

+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).

+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ

  • Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
  • Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
  • Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn “ngờ ngợ”.

+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:

  • Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì “người ta” không thèm lấy một người như Tràng.
  • Tràng lấy vợ theo kiểu “nhặt” được.

* Giá trị của tình huống truyện

– Giá trị hiện thực:

+ Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói

  • Cái đói dồn đuổi con người.
  • Cái đói bóp méo cả nhân cách.
  • Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.

+ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

– Giá trị nhân đạo

+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.

  • Tràng rất trân trọng người “vợ nhặt” của mình.
  • Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ nhặt”
  • Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.

+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:

  • Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
  • Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp.
  • Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.

3. Kết bài

– Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

– Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Dàn ý số 3:

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm

– Giới thiệu và đánh giá về tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.

2. Thân bài

* Khái niệm về tình huống truyện

– Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le, nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện trong tác phẩm “xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ không phải thế”.

– Tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn bấy nhiêu.

* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”

– Đó chính là việc anh cu Tràng “nhặt” được vợ được xem là một tình huống đầy kịch tính, xưa nay chưa từng có; vừa lạ lại vừa éo le mà Kim Lân đã phát hiện và thể hiện rất hay và lạ.

– Lạ:

+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo:

  • Xấu xí
  • Tính cách có phần hơi dở hơi
  • Nghèo, dân ngụ cư

-> Ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để khó, thậm chí không lấy được vợ.

+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo bòng”, “rước cái của nợ đời ấy về”.

+ Tràng lấy được vợ, nhặt được vợ âu cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về

-> Cái công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với Tràng.

– Éo le:

+ Tràng lấy vợ là việc được hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một đời người giữa cảnh “tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh giới mong manh, tưởng như âm – dương không có sự cách biệt.

-> Chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.

+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói. Ở đây, mấy bát bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ

-> Sự thật đáng buồn.

* Phản ứng của mọi người trước sự kiện Tràng có vợ

– Những người dân trong xóm ngụ cư:

+ “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán” -> Ngạc nhiên tột độ.

+ Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng dưng “rạng rỡ hẳn lên”.

+ Họ “cười rung rúc” rồi có người thở dài.

+ Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”

– Bản thân Tràng:

+ Mọi chuyện nhanh chóng quá đến mức chính Tràng – người trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên.

+ Nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”

– Bà cụ Tứ – mẹ Tràng:

+ Vô cùng ngạc nhiên trước thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai

+ Bà “hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “Có việc gì thế vậy?”

+ Ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:

  • Bà “đứng sững lại”
  • Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằng u?”…

=> Băn khoăn, ngạc nhiên.

+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa con mình.

+ Bà cụ Tứ cảm thấy tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này, còn mình thì…” -> Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân vật.

+ Sau đó là “mừng lòng”, chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc quan…

* Ý nghĩa của tình huống truyện

– Tình huống truyện là một trong những yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.

– Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các chi tiết khác được kể tới đều xoay quanh tình huống này.

– Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến bước đường cùng, biến giá trị con người thành số không.

– Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ

– Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng.

3. Kết bài

– Khái quát ý nghĩa của tình huống nhặt vợ đối với tác phẩm

– Cảm nhận của em về tình huống.

Một số bài văn mẫu phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt

Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt – Mẫu 1

Nhan đề truyện:

Truyện hấp dẫn, cuốn hút người đọc ngay từ đầu bởi một nhan đề rất lạ:

“Vợ nhặt”.Nhà văn ở đây không đặt là “Nhặt vợ” mà đặt là “Vợ nhặt”?

+ “Nhặt vợ”: còn có cái gì đó là chủ động, có tính toán của Tràng.

+ “Vợ nhặt”:là một sự bị động, thậm chí là được vợ theo.

Trong một lần trả lời phỏng vấn, chính Kim Lân đã hào hứng giải thích: “Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ- đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong truyện”.

Tình huống truyện độc đáo:

Sáng tạo tình huống truyện là vấn đề then chốt của nghệ thuật viết truyện ngắn. Nó khẳng định tài năng cũng như phong cách của nhà văn.

* Tình huống truyện:

Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le, nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện “xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ không phải thế”.tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn bấy nhiêu.

* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”:

Đó là việc Tràng “nhặt” được vợ- một tình huống đầy kịch tính, xưa nay chưa từng có; vừa lạ lại vừa éo le:

– Lạ:

+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo. Tràng:

  • Xấu xí
  • Tính cách có phần hơi dở hơi
  • Nghèo, dân ngụ cư

→ Hội tụ đầy đủ những yếu tố để Tràng khó, thậm chí không lấy được vợ.

+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo bòng”, “rước cái của nợ đời ấy về”.

+ Tràng lấy vợ, nhặt được vợ cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về.→ Cái công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với Tràng.

– Éo le:

+ Tràng lấy vợ- hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một dời người giữa cảnh “tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh gới mong manh, tưởng như âm- dương không có sự cách biệt→ Chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.

+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói.Ở đây, mấy bát bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ.→ Sự thật đáng buồn.

* Phản ứng của mọi người trước sự kiện độc nhất vô nhị này:

– Những người dân trong xóm ngụ cư:

+ “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”→ Ngạc nhiên tột độ.

+ Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng dưng “rạng rỡ hẳn lên”.

+ Họ “cười rung rúc”.

+ Rồi có ngưới thở dài.

+ Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “ Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”

– Bản thân Tràng:

+ Mọi chuyên nhanh chóng quá đến mức chính Tràng – người trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên. Khi đã đưa người vợ nhặt về nhà, nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”

– Bà cụ Tứ- mẹ Tràng:

+ Vô cùng ngạc nhiên trươc thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai, bà “hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “có việc gì thế vây?”

+ Ngạc nhiên hơn nữa khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:

  • Bà “đứng sững lại”→ Quá đỗi ngạc nhiên.
  • Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằn u?”….→ Băn khoăn, ngạc nhiên.

+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa con mình.

+ Tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này, còn mình thì..”→ Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân vật.

+ Sau đó là “mừng lòng”,chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc quan…

* Ý nghĩa của tình huống truyện độc đáo này:

– Tình huống truyện là yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.

– Nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng nên một tình huống truyện độc đáo. Tình huống ấy vừa phần nào nói lên tình cảnh thê thảm của người dân; vừa thể hiện sự xót xa trước thân phận của những người dân nghèo.

→ Đây là tình huống vừa mừng vừa tủi, vừa vui vừa lo→ Tình huống hi hữu, có một không hai.

Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt – Mẫu 2

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại ẩn trong đó ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.

Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.

Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!

Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình… Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.

Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng… Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.

Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chổng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.

Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !

Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.

Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt – Mẫu 3

Nạn đói năm 1945 đã trở thành một nỗi đau khủng khiếp của dân tộc ta khi nạn đói ấy đã cướp đi của đất nước ta hơn hai triệu đồng bào. Nạn đói ấy đã đi vào trong bao trang sách, những dòng văn, dòng thơ của các nhà văn nhà thơ và một trong số đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm kể về cuộc sống đời thường của những con người đang vật vờ giữa nạn đói năm 1945. Trong truyện ngắn này, Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện vô cùng đặc sắc, độc đáo và mới lạ trong Vợ nhặt, đồng thời qua đó, ông cũng thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Tình huống truyện vốn là những sự kiện, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà qua đó, tác giả muốn bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình cũng như bộc lộ được tính cách, số phận của các nhân vật. Tình huống truyện là một lát cắt từ cuộc sống, tái hiện cả một xã hội thu nhỏ trong đó. Nó là hạt nhân, điểm nhấn cho ta thấy được một phần của cuộc sống, xã hội và con người. Đó là định nghĩa về một tình huống truyện, vậy tình huống truyện trong Vợ nhặt có gì đặc sắc?

Nếu chú ý, người ta có thể nhận ra sự đặc biệt của tác phẩm ngay từ nhan đề của nó, đó là Vợ nhặt. Nhan đề của tác phẩm gần như đã thu hút được hết sự chú ý của người đọc vào nó, khiến người ta háo hức đi tìm hiểu câu chuyện, bước vào trong cái tình huống đặc biệt mà Kim Lân đã cố sức tạo nên. Tình huống đó là một anh cu Tràng xấu xí, con nhà nghèo lại “nhặt” được một cô vợ giữa lúc nạn đói năm 1945 đang hoành hành dữ dội nhất. Chỉ vậy thôi cũng khiến người đọc phải băn khoăn, phải lo lắng rồi! Bởi giữa lúc mà đến bản thân còn không lo nổi, lại rước thêm “của nợ” về thì biết sống làm sao? Đó chính là cái đặc biệt, cái khác lạ mới mẻ trong câu chuyện của Kim Lân, đó cũng chính là thứ đã tạo nên được giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm này.

Với nhan đề “Vợ nhặt” thật độc đáo, “vợ” nhưng không phải “vợ cưới” mà lại là “vợ nhặt”, nghe sao thật rẻ rúng quá đỗi. Nhan đề đã tạo nên sự hấp dẫn, một sự tò mò cho người đọc, bởi một chuyện trọng đại như lấy vợ mà ở đây lại “nhặt” được, thật quá sức bất ngờ! Thế nhưng, phải bước hẳn vào trong câu chuyện của Kim Lân, người đọc mới thực hiểu được “vợ nhặt” ấy là thế nào và hẳn ai đọc xong, cũng không khỏi ấn tượng, không khỏi đồng cảm cho số phận của những con người trong Vợ nhặt của tác giả Kim Lân.

Người ta nói, Vợ nhặt là một tác phẩm truyện chứa đựng tình huống truyện độc nhất vô nhị, mới lạ và cực hấp dẫn. Điều đó thể hiện ở bối cảnh của truyện, ở cái tình huống vừa lạ lùng vừa éo le mà Kim Lân dựng lên.

Bối cảnh mà Kim Lân dùng để xây dựng lên tác phẩm là xã hội Việt Nam năm 1945, khi mà nạn đói khủng khiếp ấy tràn đến, cướp đi của dân tộc ta hơn hai triệu đồng bào. Giữa cái bối cảnh ấy, mọi sự đều trở nên u ám, tối tăm, bởi cuộc sống của con người lúc nào cũng bị bủa vây bởi cái chết. Cái chết cứ rình rập, nhăm nhe trong từng câu chữ, con người trở nên “xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, ám ảnh, thê lương vô cùng. Ở trong cái tình thế như vậy, đến lo ăn cho chính mình còn khó khăn, chẳng ai dám nghĩ tới một chuyện gì khác, mà nhất là cái chuyện dựng vợ gả chồng vào thời điểm này.

Ấy thế mà, giữa lúc đó, ở giữa cái xóm ngụ cư ấy, lại xảy lại một câu chuyện lạ khiến người ta phải bàn tán, có người thì vui mừng, có người thì thở dài xót xa, đó là chuyện anh cu Tràng lấy vợ. Thật là một sự kiện vừa lạ lùng lại éo le hết sức. Bởi trong cái bối cảnh run rủi kia, chẳng ai biết cái chết sẽ tìm đến mình và gia đình mình lúc nào, còn anh cu Tràng lại “rước” về một cô vợ. Nó vừa gây cho người ta sự thích thú nhưng cũng khiến người ta phải lo sợ cho số phận phía trước của gia đình Tràng.

Nói tình huống truyện Vợ nhặt lạ và éo le ở chỗ, lạ là anh cu Tràng lấy được vợ, éo le ở chỗ, anh ta lại lấy vợ vào lúc mà con người ta không muốn lấy nhất, lo lắng cho cuộc sống của mình nhất.

Vậy tại sao chuyện anh cu Tràng lấy được vợ lại khiến cho người khác phải ngạc nhiên, phải coi là chuyện lạ lùng đến thế? Đó là bởi vì Tràng hội tụ tất cả những yếu tố, những đặc điểm khó để có thể có một người vợ, đặc biệt là trong cái hoàn cảnh như hiện tại. Hắn không chỉ nghèo, sống giữa một “xóm ngụ cư”, chỉ có một căn nhà lụp xụp vách lá với người mẹ già mà còn phải đi làm thuê, kéo thóc thuê cho người ta, “bữa đực bữa cái”. Mà ở đời, người ta vẫn tránh nhất hai tiếng “ngụ cư”, bởi hai cái từ ấy đã nói lên cái khinh miệt, miệt thị đối với những người dân ngụ cư:

“Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao e phải lấy chồng ngụ cư?”

Cuộc sống giữa cái xóm ngụ cư nghèo ấy còn chẳng đủ đảm bảo cho hắn và mẹ già qua nổi cái nạn đói này, huống chi là phải gánh thêm một miệng ăn khác nữa. Không chỉ thế, hắn lại còn xấu xí và thô kệch, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to rộng như lưng gấu”, “hai con mắt nhỏ tí”, “bộ mặt thô kệch”, “thân hình to lớn, vập vạp”, …Ngoại hình thì thế, hắn còn thô lỗ và ăn nói cộc cằn nữa. Vậy nên, liệu với một ngoại hình như thế, một tính cách như thế, hắn có lấy nổi vợ với cái gia cảnh của mình chăng?

Mà không chỉ có vậy, điều quan trọng nhất trong thời điểm này đó là nạn đói đang diễn ra trầm trọng, cái chết đeo bám con người từng ngày, từng giờ “người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Với tất cả những đặc điểm trên, Tràng thực sự khó kiếm nổi một cô vợ cho mình mà cũng không nên lấy vợ ở thời điểm này. Bởi nếu hắn lấy vợ ở thời điểm này thì thật chẳng khác nào tai họa, chẳng khác gì “rước thêm của nợ đời”, là “đèo bòng”, đẩy chính hắn vào cái bi kịch của nạn đói nhanh hơn một bước.

Thế nhưng, cuộc đời chẳng biết được sự ngờ khi mà chính tại cái thời điểm không mong muốn nhất thì có một người phụ nữ đồng ý theo hắn về nhà làm vợ, và hắn có thể nghiễm nhiên trở thành một người đàn ông có vợ. Cái sự “có vợ” của hắn đến bất ngờ như một cơn mưa rào giữa trưa hè nóng nực. Bởi chỉ với một câu bông đùa trong lúc đang gò lưng kéo xe thóc lên dốc, khi hắn chứng kiến những người đàn bà ngồi bên lề đường mà “hắn đoán họ ngồi đấy để nhặt hạt rơi hạt vãi”. Đứng trước cái cảnh ấy, chẳng hiểu sao, Tràng lại hò lên một câu hò đầy tình tứ, chỉ để mà “chơi cho đỡ nhọc”: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”. Một câu hò tưởng chừng vô ý, ấy thế mà cô nàng lại “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Một cái cười “tít mắt” của Thị đã khiến cho Tràng phải “thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Đó là cái duyên cớ họ quen nhau, và cái câu hò ấy như là một cái lý do, một chiếc phao cứu sinh, một nhịp cầu dẫn đường cho họ đến với nhau. Và đúng như vậy, lần thứ hai gặp nhau, đó là khi Tràng đã trả hàng xong, ngồi uống nước thì Thị ở đâu chạy lại. Nếu như không có câu hò ấy làm dấu hiệu thì liệu Tràng có nhận ra người đàn bà “rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” kia là người đã cùng đẩy xe bò với mình hay chăng? Nhìn Thị chắc hẳn Tràng cũng hiểu, cái đói đã dày vò Thị, nhìn Thị, Thị đang là nạn nhân của cái đói mà nếu không có cái ăn, chỉ một vài ngày nữa thôi, Thị cũng sẽ giống như những người chết đói khác. Lúc đó, trong lòng Tràng bừng lên cái cảnh giác thương cảm đồng loại, và thế là Tràng quyết định mời Thị ăn: “muốn ăn gì thì ăn”. Câu nói đó như đánh trúng cái tâm lý của Thị, Thị chỉ đáp trả bằng một câu hời hợt “Ăn thật nhá, ừ thì ăn sợ gì”, và thế là Thị làm một chặp “bốn bát bánh đúc”. Nhìn Thị ăn, chắc hẳn có người sẽ nghĩ Thị là loại đàn bà con gái trơ trẽn, không có liêm sỉ, nhưng đặt mình vào hoàn cảnh của Thị thì mới hiểu, mới thương và xót xa cho Thị. Người ta tự hỏi cái gì đã khiến Thị mất đi lòng tự trọng, cái gì đã khiến cho Thị không màng tới liêm sỉ như thế? Chẳng phải đó là cái đói, cái chết hay sao? Bởi vậy, Thị đáng thương hơn là đáng trách, đáng tội nghiệp hơn là đáng phải chịu lời khinh bỉ. Xong bữa ăn, Thị vô từ “thở: Hà ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, một câu nói lịch sự vu vơ nhưng lại được Tràng đáp trả: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Một câu nói đùa của Tràng mà Thị làm thật, thế là trở thành một đôi vợ chồng. Cái đám cưới của Thị và Tràng vội vàng, nhanh chóng và đơn giản đến bất ngờ. Chẳng có cỗ bàn linh đình, chẳng mổ bò giết lợn, tất cả chỉ gói gọn trong bốn bát bánh đúc, vậy mới nói, chuyện anh cu Tràng lấy vợ là một chuyện lạ ở đời.

Có những người cho rằng, ở thời điểm đó, hắn nên từ chối, bởi người ta chẳng biết ngày mai ra sao, cái đói, cái chết có tìm đến mình hay không mà cưới vợ, thì hắn lại bỏ mặc tất cả với một tiếng “chặc lưỡi: “chặc, kệ!”. Và thế là hắn có vợ, thế nhưng cái sự có vợ của hắn lại là một tình huống éo le nhất mà chúng ta từng đọc.

Bởi xưa nay, việc dựng vợ gả chồng luôn là việc hệ trọng bậc nhất, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của đời người. Mỗi khi nhắc đến việc cưới vợ cưới chồng, cả gia đình phải cùng nhau tính toán, không chỉ là lễ vật mà còn phải là ngày lành tháng tốt để rước dâu. Ấy vậy mà với Tràng, “giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy” thì hắn lấy vợ. Không có một tính toán, không có một lời dạm hỏi hay tình yêu, tất cả chỉ đơn giản bắt nguồn từ một câu nói đùa. Hạnh phúc lớn nhất đời người của Tràng được đổi bằng “bốn bát bánh đúc” nóng hổi khiến cho ai cũng phải bất ngờ và ngạc nhiên vô cùng. Cái hạnh phúc lớn nhất đời người kia tưởng phải vẹn tròn thì giờ đây bị chen ngang bởi cái đói, cái chết bởi nạn đói đang hoành hành dữ dội khắp nơi.

Nếu như xưa nay, vợ chồng đến với nhau không phải vì tình yêu thì cũng nhờ mai mối đưa đẩy, thì Tràng lại khác. Cái duyên đưa đẩy Tràng và Thị đến với nhau lại chính là cái đói. Chỉ với mấy bát bánh đúc, Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà để trở thành dâu con trong nhà. “Bốn bát bánh đúc” ấy đã thay cho mấy lễ trầu cau dẫn cưới, “ba bò chín trâu” lễ vật, một cái giá không thể có nếu như không phải nạn đói đang xảy ra, và khi đó, hiển nhiên, Tràng cũng chẳng thể lấy nổi với cái gia cảnh của mình.

Thế mới nói, Tràng lấy vợ đã trở thành một tình huống éo le bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, bởi hắn không chỉ lấy vợ trong bối cảnh đặc biệt: nạn đói và còn bởi duyên phận kéo vợ chồng hắn đến với nhau cũng là cái đói trong những năm tháng ấy. Đám cưới diễn ra nhanh chóng, cái cuộc đưa dâu cũng diễn ra chỉ vỏn vẹn có cô dâu và chú rể dắt díu nhau trở về căn nhà lụp xụp cuối xóm ngụ cư. Một đám cưới trên nền cái đám tang của dân tộc, của vô số những con người khác. Như những người khác nhìn vào, Tràng đã “liều”, hắn đang đánh cược số phận của mình với thần chết, bởi cái thời buổi này, nuôi thân còn khó chứ đừng nói chi “đèo bòng”. Và Thị nữa, Thị cũng thật “liều” khi nhắm mắt đưa chân theo một kẻ xa lạ. Đến khi nhìn thấy cái nhà của Tràng, Thị mới “nén một tiếng thở dài”, cũng đúng thôi, bởi Thị chắc hẳn thất vọng khi nhìn thấy gia cảnh của Tràng, liệu nó có chứa chấp nổi cái thân của Thị hay chăng? Thế nhưng, lúc gặp Tràng, Thị đã cố bấu víu vào cái hi vọng cuối cùng để được sống, thế nên đành “nhắm mắt đưa chân”, hi vọng rằng Tràng sẽ bến đậu cho cuộc đời của Thị.

“Nhặt” được vợ, một câu chuyện tưởng chừng như cổ tích ấy lại diễn ra vô cùng chân thực trước mắt chúng ta, vậy những con người trong câu chuyện ấy đã phản ứng ra sao đối với việc Tràng lấy vợ?

Đầu tiên là phản ứng của những người dân trong xóm của Tràng, những người đầu tiên chứng kiến một cuộc đưa dâu kì lạ nhất trong đời mình. Họ chứng kiến vợ chồng Tràng kẻ trước người sau bước những bước chân trở về ngôi nhà mình, ngang qua những căn nhà cũng lụp xụp của họ. Và khi họ nhìn thấy người đàn bà bẽn lẽn phía sau lưng Tràng thì “họ đứng cả trong ngưỡng cả nhìn ra bàn tán”, bởi họ ngạc nhiên “người trong xóm lạ lắm”. Thế nhưng, nhìn thấy điều đó, dường như họ đã “hiểu được đôi phần”, và từ trong tâm những con người nghèo khổ ấy bừng lên một điều gì đó khiến “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Rồi những tiếng cười bùng lên, họ “cười lên rung rúc” như niềm vui bao ngày mới tìm lại được giữa một cuộc sống mà cái chết cứ rình rập họ từng ngày. Thế nhưng, có người vui cười, cũng có người hiểu cái tình cảnh hiện tại của họ, của Tràng, của Thị mà thở dài: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”, và rồi họ “nín lặng”. Cái lặng thinh trong không gian như ngấm vào trong tâm họ cả niềm vui và nỗi buồn, vui vì anh cu Tràng có vợ, họ chia sẻ với hắn niềm vui ấy, nhưng họ cũng lo cho hắn, lo cả sang cái cuộc sống mà cái đói, cái chết của vây hãm họ mỗi ngày này.

Còn đối với anh cu Tràng, lấy vợ – một chuyện đại sự cả đời lại xảy ra chỉ trong vài giờ ngắn ngủi, Tràng đi từ ngạc nhiên, bất ngờ tới nỗi sợ hãi rồi sau cùng là niềm vui, hạnh phúc. Hắn ngạc nhiên là bởi vì chỉ với một câu đùa với dăm ba bát bánh đúc mà Thị đã bằng lòng theo hắn trở về nhà. Bởi hắn hiểu hoàn cảnh của mình, hiểu rõ bản thân mình hơn ai hết, nhất là trong cái giai đoạn này, ai dám đặt cược bản thân mình vào một kẻ nghèo, xấu xí, sống giữa xóm ngụ cư như hắn chứ? Vậy nên, cái gật đầu bằng lòng của Thị đã khiến hắn bàng hoàng quá đỗi! Và tiếp sau đó là sự sợ hãi dâng lên trong lòng Tràng “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng, nỗi sợ hãi ấy dâng lên trong lòng Tràng chỉ vài tích tắc, bởi sau đó hắn đã “chặc lưỡi một cái: chặc, kệ!”. Giờ đây, hắn chỉ thấy bừng lên trong lòng mình niềm hạnh phúc, niềm vui khi có được một người vợ, có được hạnh phúc gia đình. Chẳng thế mà anh chàng “tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, nhìn nàng dâu mới “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, hắn càng vui sướng “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”, “hắn thích chí cười khanh khách”. Niềm vui sướng về hạnh phúc gia đình đã khiến hắn “hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên đi cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Niềm hạnh phúc ấy đến với Tràng bất ngờ quá, nhanh chóng quá, giữa hoàn cảnh đói khát nhất, để đến khi tỉnh dậy vào sáng sớm hôm sau “hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.

Bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn con cái mình có được những điều tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất. Ai cũng vậy và bà cụ Tứ – mẹ Tràng cũng không phải ngoại lệ. Người mẹ già cũng mong muốn con trai mình có được một hạnh phúc nhỏ riêng mình, thế nhưng bà hiểu được hoàn cảnh của gia đình mình, hiểu được con trai bà, và hơn hết, hiểu được cái giai đoạn mà cái chết khủng khiếp đang gần kề thế này. Chính vì thế, khi Tràng dẫn người vợ mới trở về gian nhà ọp ẹp, tâm trạng bà mới đầy những cảm xúc khó tả.

Đầu tiên là sự ngạc nhiên, bà ngạc nhiên khi thấy Tràng đon đả hơn thường ngày, thái độ vồn vã của Tràng đã báo hiệu cho bà một linh cảm khác lạ. Và bà càng ngạc nhiên hơn khi nhìn vào trong nhà của mình lại thấy một người đàn bà khác đang đứng ngay trên “đầu giường của thằng con mình” và chào bà bằng u. Bà cụ băn khoăn tự hỏi chính bản thân mình “Ai thế nhỉ?”, bởi bà chưa từng nghĩ, đứa con trai của mình lại có thể có vợ giữa lúc tối tăm thế này. Thế rồi, bà nghe Tràng nói, bà “cúi đầu nín lặng”. Lòng người mẹ già nặng trĩu bao điều. Bà vui mừng bởi đứa con trai của bà nay đã có người bầu bạn vui cùng, thế nhưng, bà lại tủi phận cho cái kiếp nghèo đeo đuổi gia đình bà bao lâu nay “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi… Còn mình thì…”. Những nỗi lo âu giằng xé tâm can người mẹ già “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi đó dằn vặt tâm can bà, chất chứa nỗi hoang mang, chua xót cho số kiếp của mình, của những đứa con mình. Sự nghẹn ngào của bà, nỗi xót xa, sự ân hận khi không thể làm tròn được bổn phận của một người mẹ “năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!”. Thế nhưng, sau tất cả những dằn vặt, nghẹn ngào và ân hận ấy, là niềm vui mừng của bà dành cho đôi trẻ “u cũng mừng lòng”. Bà cũng truyền cho vợ chồng Tràng những niềm lạc quan, cái hi vọng bà gieo cho họ về một tương lai tươi sáng phía trước “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may ông giời cho khá…”. Đó là tất cả tấm lòng của người mẹ già dành hết cuộc đời mình vì con vì cái.

Mỗi nhân vật ở trong câu chuyện đều có một tâm trạng, sự phản ứng khác nhau trong sự kiện Tràng lấy vợ. Ở đó có niềm vui, niềm hạnh phúc của Tràng khi khao khát hạnh phúc gia đình đã thành hiện thực, của bà cụ Tứ khi đứa con trai đã có người bầu bạn cùng, thế nhưng, cũng có những nỗi buồn, sự xót xa. Bởi Tràng lấy vợ giữa một hoàn cảnh đầy éo le, đầy những run rủi và bất trắc, bởi giữa cái nạn đói kia, kết hôn chính là “đèo bòng”, là “rước của nợ đời”, không biết có nuôi nổi không.

Tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm, đồng thời còn tạo điều kiện để nhà văn khai thác thế giới nội tâm của nhân vật một cách chân thực và sâu sắc nhất. Kim Lân đã khéo léo xây dựng một tình huống truyện đặc sắc, độc đáo bậc nhất nền văn học Việt Nam. Tình huống ấy không chỉ làm rõ cái tình cảnh thê thảm của những người dân ta trong nạn đói khủng khiếp 1945 mà còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những tăm tối trong số phận con người trước Cách mạng Tháng Tám 1945 nữa.

Ngoài ra, tác phẩm cũng thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Giá trị hiện thực nằm ở chỗ, Kim Lân đã miêu tả tình cảnh, cuộc sống, khung cảnh thê thảm của con người trong nạn đói năm 1945 khi mà cái đói dồn đuổi con người ta vào đường cùng. Nó cũng khiến cho những thứ hạnh phúc tưởng chừng to lớn nhất đời người trở nên mong manh, tội nghiệp. Và hơn thế, nó tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn phát xít , thực dân xâm lăng đất nước ta.

Về giá trị nhân đạo, Kim Lân muốn thể hiện cho chúng ta thấy được tình cảm thương mến của con người dành cho nhau ngay cả trong những lúc khó khăn, đói khát nhất. Sự trân trọng của Tràng dành cho Thị, tình yêu thương vô bờ của bà cụ Tứ là những điểm sáng giữa bức tranh tăm tối của nạn đói. Thêm nữa, ta còn cảm nhận được một thứ ánh sáng hy vọng vào tương lai tốt đẹp khi ngọn cờ Cách mạng phất phới bay trong gió cùng đoàn người đi phá kho thóc Nhật.

Kim Lân là một nhà văn thực sự tài năng, là một nhà văn gắn liền với đất và người. Tình huống trong câu chuyện “Vợ nhặt” của ông đã cho chúng ta một cái nhìn mới về tình nghĩa con người trong nạn đói khủng khiếp của dân tộc. Tình huống ấy được dựng lên vừa lạ lùng vừa éo le, gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc khó tả nhất. Đồng thời nó cũng chứng minh một tài năng hiếm có trong nền văn học Việt Nam – Kim Lân.

Trên đây là một số bài văn mẫu Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt (Kim Lân). Các em học sinh có thể truy cập website Mầm Non Ánh Dương để tìm hiểu những bài viết hay, hữu ích phục vụ cho quá trình học tập của mình.

Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button