Đề bài: Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước
This post: Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước
Bài văn mẫu Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước
I. Dàn ý Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước (Chuẩn)
1. Mở bài
– Tổng quan về đề tài đất nước trong thi ca.
– Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.
>> Một số cách viết Mở bài Đất nước hay.
2. Thân bài
a. Phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm:
– Phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta.
– Có sức liên tưởng mạnh mẽ, dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian.
b. Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù văn hóa truyền thống.
* Lòng tự hào về cội nguồn dân tộc:
– Dùng truyền thuyết Lạc Long Quân- u Cơ, kết hợp với hình tượng Chim đại diện cho phương Nam, Rồng đại diện cho phương Đông tạo thành khối lý luận sự tương ứng giữa hai chỉnh thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt.
=> Suy luận chặt chẽ làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông.
* Suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta.
– Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam.
– Từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam, mà theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước.
– Cũng từ nền văn hóa lúa nước Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng đến mối liên quan giữa Đất Nước và nền văn hóa sông nước, một yếu tố điển hình của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
=> Lý giải một cách tinh tế, sâu sắc, cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.
* Phong cách triết luận nằm ở cái cách thi nhân đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình.
– Trong ca dao “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt
– Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
* Đất Nước hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt: Là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc.
– Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước
– Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”.
– Cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa.
=> Những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền thoại.
c. Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù lịch sử dân tộc:
– Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.
– Đất Nước của những con người với phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
d. Tư tưởng triết luận Đất Nước của nhân dân:
– Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời
– Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước.
e. Yếu tố trữ tình:
– Thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc.
– Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân.
– Tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.
3. Kết bài
- Tổng kết và cảm nhận về phong cách trữ tình triết luận của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất Nước.
>> Tham khảo những cách viết Kết bài Đất nước ngắn gọn, ấn tượng.
II. Bài văn mẫu Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước (Chuẩn)
Giai đoạn những năm 1945-1975 là giai đoạn có sự ra đời của nhiều tác phẩm xuất sắc viết về đề tài đất nước, trong đó nổi bật có Nguyễn Đình Thi với một đất nước đau thương mà anh dũng trong bài thơ cùng tên, có một Tạ Hữu Yên với hình tượng đất nước buồn xót xa “thon thả giọt đàn bầu…đau nỗi đau người mẹ 3 lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ” trong Đất nước tôi, một Chế Lan Viên với hình tượng đất nước trầm ngâm, lắng đọng thấm đượm hơi thở dân tộc trong Thời sự hè 72 – Bình luận. Và ấn tượng ta lại có một Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước mang âm hưởng sử thi, bắt nguồn từ những huyền thoại, một đất nước có quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại, một đất nước của nhân dân và bắt nguồn từ nhân dân. Có thể nói Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm tức là nhắc đến một nhà thơ có phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta. Đọc thơ ông ta phát hiện ra rằng, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có sức liên tưởng mạnh mẽ, ông hết đưa người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại, rồi lại dẫn từ những đau thương vất vả đến hạnh phúc, vui vầy, đưa nhận thức của con người từ sách vở khô khan bước ra đến với thực tiễn, lái từ tình cảm gần gũi, thân thuộc sang đến cảm xúc hào hùng, bi tráng. Đặc biệt trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian mà có người đã nhận xét rất đúng rằng “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”.
Trước hết tính triết luận trữ tình trong Đất Nước thể hiện ở lòng tự hào về cội nguồn dân tộc.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Xuất phát từ tư tưởng triết lý hài hòa âm, dương, vạn vật đều có đôi có cặp của người Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn ta về với truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, với chiếc bọc trăm trứng nở ra trăm người con. Tuy nhiên nhà thơ sẽ không chỉ đơn giản dừng lại ở việc gợi nhắc lại truyền thuyết mà ở đoạn thơ trên còn có một sự liên tưởng sâu xa. Trong văn hóa cổ xưa hình ảnh Chim vẫn luôn tượng trưng cho bầu trời phương Nam, điều này xuất phát từ những truyền thuyết về việc chim Lạc bay về phương Nam mở đất, thêm vào đó hình tượng Rồng lại là thần thú của đại diện cho các quốc gia phương Đông. Như vậy sự tương ứng giữa hai chỉnh thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt đã trở thành một sự suy luận hợp lý làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông. Quả thật là một tư tưởng triết luận sâu sắc.
Nguyễn Khoa Điềm cũng suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta trong câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/ Đất nước có từ ngày đó”. Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam. Từ chính những hạt thóc, hạt lúa nhỏ bé ấy đã làm nên Đất Nước, đã dựng xây nên một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, và ngày hôm nay nó đã mạnh mẽ trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới.
Không chỉ thế từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”.
Mà theo như Nguyễn Khoa Điềm, theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước, chính họ đã sống bình tâm, an lành, miệt mài lao động, xây xóm, dựng làng trên khắp mọi miền đất nước và rất nhiều xóm làng với những sinh hoạt đậm nét truyền thống như vậy đã làm nên một Việt Nam thuần nông chất phác.
Cũng từ nền văn hóa lúa nước Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng đến mối liên quan giữa Đất Nước và nền văn hóa sông nước, một yếu tố điển hình của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Một lần nữa ta tách biệt Đất Nước thành hai yếu tố Đất và Nước, hai yếu tố tối cần trong nông nghiệp và trở nên rất gần gũi quen thuộc đối với mỗi người dân Việt, từ đó khái niệm Đất Nước trong tâm tưởng của mỗi người nông dân đã không còn trở nên quá xa lạ mà đã được Nguyễn Khoa Điềm lý giải một cách tinh tế, sâu sắc. Cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.
Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm còn nằm ở cái cách ông đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình, mà ở đó Đất Nước được phô bày với tất cả những vẻ đẹp vừa đậm đà bản sắc vừa có chất lung linh huyền ảo từ những câu chuyện xa xưa vận vào. Đó là một Đất Nước bước ra từ màn sương khói xa xăm của truyền thuyết, thần thoại và ca dao cổ.
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Và cả trong “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt, một chất liệu đã từng nằm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, nét tính cách đẹp ấy góp vào truyền thống của dân tộc để dựng xây nên Đất Nước. Và rồi Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” rất thân thương và gần gũi với mỗi con người ngay từ thuở còn nằm ngửa trong nôi, nghe mẹ ru hời.
Đất Nước cũng hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt, đó là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc. Mà trong Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đã đề cập đến bằng những câu thơ rất hay có sự liên kết, gắn bó với nhau thành một chỉnh thể về phong tục tập quán của dân ta. Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, khiến người ta liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng hướng về một câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám, như vậy chính ra Đất Nước gắn với miếng trầu vừa đủ cả hai yếu tố cổ tích và yếu tố hiện thực trong phong tục tập quán của dân tộc. Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”. Không chỉ dừng lại ở đó, từ mái tóc của người mẹ nhà thơ tiếp tục liên kết đến cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa việc đặt tên con càng xấu thì đứa trẻ càng không thu hút sự chú ý của quỷ thần, ma mãnh để mà bình yên lớn lên, tình cảm yêu thương gắn bó trong gia đình cũng được hiện lên một cách nổi bật như vậy. Có thể nói rằng những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền thoại.
Bên cạnh tư tưởng triết luận Đất Nước được hình thành và tạo dựng trong các phạm trù văn hóa truyền thống, thì Nguyễn Khoa Điềm còn mở ra một hình tượng Đất Nước được gây dựng từ những truyền thống lịch sử xuyên suốt từ thuở dựng nước cho đến tận ngày hôm nay và nó được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong Đất Nước. Thứ nhất Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Và phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Không kể là đàn bà hay đàn ông, họ đều sẵn sàng chiến đấu sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đất Nước mà không nao núng. Truyền thống ấy đã có từ thời Phù Đổng Thiên Vương thuở vua Hùng thứ 6 chiến thắng giặc n xâm lược, rồi cưỡi ngựa sắt trở về trời để lại những dấu tích huy hoàng, oanh liệt.
Và cuối cùng tổng kết lại, tất cả những quan điểm triết luận của Nguyễn Khoa Điềm đều hướng về một quan niệm dân chủ truyền thống: Đất nước của nhân dân, do nhân dân gây dựng mà có. Chính bản thân ông khi nói về Trường ca Mặt đường khát vọng ông cũng thể hiện rất rõ ràng tư tưởng triết luận, chính luận xuyên suốt được ông dùng phong thái trữ tình diễn đạt, rằng: “Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này”. Ở đó hình ảnh nhân dân đã hiện lên thật mạnh mẽ, kiêu hùng và thẳng thắn, chân thật “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”. Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời. Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước, điều ấy thể hiện trong một đoạn thơ khá dài:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Về yếu tố trữ tình, chủ yếu thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân. Từ lòng yêu nước thiết tha nồng đượm ấy đã mở ra những tình cảm khác ấy là lòng yêu và trân trọng những giá trị văn hóa có bề dày lịch sử, tấm lòng tự hào trước những phẩm chất tốt đẹp của người Việt, trước thiên nhiên, trước những thành tựu do nhân dân gây dựng nên từ hạt gạo nhỏ bé cho đến Đất Nước lớn lao. Cuối cùng chính là tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.
Bằng phong cách triết luận, trữ tình sâu sắc Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một Đất Nước với dáng hình mới mẻ, khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước nồng đượm phong vị của chất liệu văn hóa dân tộc, của hơi thở lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và chân thực, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước – hai tiếng yêu thương.
—————————–
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là bài thơ mang đậm phong cách chính luận trữ tình, bên cạnh bài Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước, danh sách các bài văn hay lớp 12 còn nổi bật với các bài Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cảm hứng về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm qua phần một đoạn Đất Nước. Các em học sinh THPT có thể tham khảo các bài viết này để ôn tập và chuẩn bị tốt cho các bài tập trên lớp của mình.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)