Đề bài: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
This post: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
5 bài văn mẫu Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Bài mẫu số 1: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. “Ông vua phóng sự đất Bắc” liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”, “Vỡ đê” và “Cơm thầy cơm cô”. Tác phẩm của ông được đánh giá là “vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam từ khi có chữ quốc ngữ”.
Trong đó, “Số đỏ” với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kì cay độc với xã hội trường giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống “Âu hóa” văn minh rởm, hết sức đồi bại và lố lăng đương thời. “Số đỏ” chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng người xấu xa, đê tiện như mẹ Tây, ma cà bông, giới cảnh sát, nhà chùa, đám du học, có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí… Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: “Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, xã hội chó đểu…”.
Chương XV với cái tiêu nhan đề: “Hạnh phúc của một tang gia” đã đem đến cho người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ “Tấn trò dời” của xã hội thực dân phong kiến.
Nhan đề chương XV là một nghịch lí đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháu “sung sướng lắm!”.
Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở tây buổi ấy.
Cha chết, ông chết “bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích”. Đây là dịp hiếm có để khoe của, khoe giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”. Niềm vui tràn ngập: “tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 câu gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng” đến cái giờ phút hạnh phúc “hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ: “một cái đám ma như thể, một cái gậy như thế” … rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa…”. Con trai đã “báo hiếu” cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.
Văn mẫu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng. Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có một “mảnh bằng nào cả” về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò “Âu hóa” nhằm “phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp”. Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì “cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách “chống gậy”, “gục đầu, “cong lưng”, “lau mắt”, như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y “luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng” như một tên hề!
Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt ké, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát “một đám ma gương mẫu” nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát công lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoảng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù “theo cái lối Ta, Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu…”. Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
“Có bao đám khách” quý phái và “sang trọng” đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là “giai thanh gái lịch”, là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan.. Họ không đến đưa tang mà là để “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ” hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả “Số đỏ” đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe “tài” khoe “đức” ấy “đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăng quăng…”. Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân.
Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp “phục bút” khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ “Ngây thơ” đi mời trầu và thuốc lá quan khách với “vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Cô vô cùng sung sướng khi thấy “anh Xuân” đã đến bèn “liếc mắt đưa tình… để tỏ ý cảm ơn”. Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với sáu chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn… đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: “Ấy, giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên “danh giá nhất tất cả”.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán “mọc sừng” vốn đã nhờ “đôi sừng hươu” ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: “Hứt! Hứt! Hứt…” để báo hiếu vẫn không quên giữ chữ “tín” với ân nhân. Ông ta đã “dúi vào tay” Xuân “một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư”. Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra sòng phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán “mọc sừng” như một cặp bài trùng, hai diễn viên siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch “đám ma gương mẫu”. Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn “thượng lưu”, đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người “chó đểu” trong cái xã hội “chó đểu” là như thế đó!
Tóm lại, qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kế chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả “Số đỏ” là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó; Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!
Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.
——————HẾT BÀI 1——————–
Sau khi đã Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia các em có thể đi vào Lời văn của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia đậm chất trào phúng. Hãy chứng minh. hoặc tham khảo Phân tích Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ nhằm củng cố kiến thức của mình.
Bài mẫu số 2: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Vũ Trọng Phụng được tôn vinh là ” ông vua phóng sự đất Bắc” và mỗi tác phẩm của ông được ví như một quả bom ném vào cái xã hội lố lăng, ô trọc của Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu cho nghệ thuật trào lộng, châm biếm sâu cay của ông có thể kể đến tiểu thuyết ” Số đỏ” – cuốn tiểu thuyết mà mỗi chương truyện sinh động, sắc sảo, nhạy bén như một thiên phóng sự. Đoạn trích ” Hạnh phúc của một tang gia” ( thuộc chương XV của tác phảm “Số đỏ”) là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm này
” Nghệ thuật trào phúng” là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Trong đoạn trích, nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng, tình huống trào phúng, mô tả chân dung trào phúng, cảnh trào phúng và giọng điệu, ngôn từ
Mâu thuẫn trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề chứa đựng nghịch lí : ” Hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thỏa mãn, thoải mái về tinh thần khi được đáp ứng một nhu cầu nào đó trong cuộc sống. ” Tang gia” là gia đình có tang, có người thân mất đi, nghĩa là có sự mất mát về người. Theo Vũ Trọng Phụng, tang gia tuy có mất mát về người ( cụ cố Tổ) song bù lại nó đem lại rất nhiều lợi lộc về tiền bạc và danh tiếng. Cách lí giải này sẽ là lời hé mở về mở bản chất của tầng lớp thượng lưu trong xã hội: chỉ quan tâm đến danh lợi mà bất chấp đạo lí tình nghĩa. Không dừng lại ở nhan đề, mâu thuẫn trào phúng sẽ được triển khai trong toàn bộ chương truyện và được tăng dần về mức độ, phóng đại niềm hạnh phúc. Ban đầu là niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình, sau đó là hạnh phúc được tràn ra cả ngoài xã hội. Cái chết cụ cố Tổ ban phát niềm hạnh phúc cho tất cả các thành viên trong và ngoài gia đình.
Bài văn cảm nhận về nghệ thuật trào phúng qua chương Hạnh phúc của một tang gia hay nhất
Tình huống trào phúng được lựa chọn là một tình huống đạo đức: tác giả dùng cái chết của người thân làm phép thử độ sáng của đạo hiếu trong gia đình, dùng cái chết đồng loại làm phép thử độ sáng của tình người và tính người. Để triển khai tình huống, Vũ Trọng Phụng đã tập hợp và miêu tả những tâm trạng, hành vi, cách ứng xử, thái độ hoàn toàn trái với chuẩn mực đạo đứ thông thường. Đó là tang gia song không ai nghĩ đến người chết và việc báo hiếu. Mỗi người đều có mối quan tâm riêng nhưng đều hướng đến hai chữ danh lợi thu được từ cái chết ấy. Đó là tang gia song không ai đau buồn, thương tiếc. Nếu có đau buồn, thương tiếc cũng chỉ là cái mặt nạ, là màn kịch được dựng lên để che đậy những nhu cầu, mưu đồ, toan tính. Ẩn sau lớp mạt nạ là niềm vui thực sự của cả người thân trong gia đình và những người ngoài gia đình. Niềm vui ấy khiến đám tang có xu hướng trở thành đám hội tưng bừng, náo nhiệt.
Trong nghệ thuật biếm họa, chỉ với đôi ba nét, người họa sĩ tóm được thần thái của đối tượng trào phúng, lột tả được mâu thuẫn, phơi bày được bản chất của con người xấu xa để tạo tiếng cười đấy chất trí tuệ, có sức công phá lớn. Lần lượt các chân dung biếm họa hiện lên dưới ngòi bút như có thần của Vũ Trọng Phụng.
Đó là cụ cố Hồng – con trai cả của người chết.Với vị trí này, trách nhiệm của ông là lo ma chay của cha mình cho chu tất nhưng những hành động cụ thể của ông lại hoàn toàn trái ngược. Ông nằm dài, hút thuốc phiện và mơ màng theo khói thuốc. Ông nghĩ đến việc cưới chạy cho cô con gái Tuyết nhưng lại đùn đẩy việc cưới xin cho vợ. Cái danh mà ông mơ ước và tô vẽ là gia thế của một gia đình nề nếp, gia phong, danh gia vọng tộc. Vì thế ông đã tỏ ra già cả dù chưa đến 60 để được gọi là ” cụ Cố”. Ông sẵn sàng mùa hè mặc áo bông, trả nhầm tiền xe để chứng minh mình lẩm cẩm; luôn gắt gỏng để chứng tỏ mình già cả, ốm yếu. Nghĩ đến cái chết của bố mình, ông sung sướng đến độ đê mê nên ” đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!” và khen ” một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế”… Tấm lòng của người con trơ như khúc gỗ, vô cảm trước cái chết của người cha. Vai trò và tình cảm của một đứa con trong ông đã chết bởi ông chỉ nghĩ đến cái gậy mà thôi!
Ông Văn Minh là đứa cháu đích tôn, là ” nhà cải cách xã hội” danh giá thì sung sướng tột đỉnh vì ” Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Mọi hành động của ông đều đối lập với trách nhiệm và tình cảm của một người cháu. Ông mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội để đảm bảo tính pháp lí của chúc thư. Ông còn nghĩ đến cách đối xử với Xuân Tóc Đỏ mà thực chất là tìm cách bịt miệng vì Xuân Tóc Đỏ biết những bí mật tày đình của ông. Ông quan niệm tội bôi nhọ danh dự của người thân trong gia đình là tội nhỏ và tội làm chết người thân trong gia đình mới là cái ơn lớn. Để trả cái ơn to lớn ấy, ông đã dùng hạnh phúc trăm năm của cô em gái lá ngọc cành vàng để trả ơn cho một kẻ vô học. Ở ông tồn tại sự mâu thuẫn giữa cái bên ngoài là vẻ mặt “đăm đăm chiêu chiêu” của cái bối rối lo lắng rất hợp thời trang nhà có tang với cái bên trong là việc nghĩ cách đối xử với người đã mang đến cái ” ơn to” cho gia đình.
Cô Tuyết, cô cháu gái giữ gìn nửa chữ trinh, mới chỉ hư hỏng được một nửa. Mặt cô phảng phất vẻ buồn lãng mạn vì nhớ nhung nhân tình chứ không phải xót thương ông nội. Đám tang mang đến niềm hạnh phúc cho cô vì cô được mặc bộ y phục ” Ngây thơ” để chứng tỏ phẩm giá mới chỉ đánh mất nửa chữ trinh. Bộ y phục nửa kín nửa hở làm cho các ông tai to mặt lớn bạn của cụ cố Hồng cảm động thực sự, còn hơn cả ” những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”
Cậu tú Tân thì “cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sang mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Ông nội chết là dịp để cậu trỏ tài đạo diễn, chụp ảnh trong dịp đám tang. Cậu tỏ ra là một tài tử chụp ảnh, những chiếc máy ảnh được chuẩn bị từ lâu nay sẽ có dịp dung đến. Cậu và bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác nhau để chụp ảnh ở những khoảnh khác nhau. Cậu đạo diễn mọi người gục đầu, cong lưng, khóc rồi đóng kịch xót thương cho đúng không khí đám tang
Ông Phán mọc sừng là con rể của cụ cố Hồng. Ông sung sướng vì ” không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông lại đến như thế’, nó có giá đến ” vài nghìn đòng” Đông Dương. Ông trù tính ngay một cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ để nhân cái số vốn ấy lên. Là một diễn viên đại tài, ông Phán đã hoàn thành xuất sắc màn kịch vờ tỏ ra khóc thương. Trong đám tang ông vợ, ông mặc cái khăn trắng to tướng, áo thụng trắng lòe xòe và khóc mãi không thôi. Ngay cả Xuân Tóc Đỏ- kẻ chuyên đi lừa đảo người khác cũng bị ông lừa. Tưởng ràng ông khóc đến lả oặt người đi nên đã đưa tay ra đỡ, nhưng đến khi ông Phán dúi vào tay tờ 5 đồng gấp tư hắn mới hiểu ra bộ mặt thật tham lam đến mức tình người khô héo, trái tim vô cảm và thậm chí là việc bán rẻ cả danh dự bản thân. Ngay trước mặt cha vợ, trước linh hồn ông vợ, ông ta vẫn thản nhiên hoàn thành công việc thanh toán tiền để chuẩn bị chuyển nốt sang công việc toan tính khác.
Không chỉ khắc học chân dung châm biếm cá nhân, tác giả còn khắc họa hình tượng đám đông. Những tốp người đó là nhóm các vị quan chức cao cấp thì long trọng gắn lên ngực đủ các thứ huy chương: ” Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, ..: đủ các thứ màu sắc và kiểu râu ria trên cằm ” hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hoăc rầm rạm, loăn quoăn..”. Các vị đi cạnh linh cữu bị kích động, bởi ” làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Nhóm đông đảo nhất gồm toàn ” giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm với nhau, chê bai nhau, ghen tuông hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn râu của những người đi đưa ma”. Đám tang là cơ hội để tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, gái trai thỏa mãn cái sung sướng, hạnh phúc của mình
Cảnh trào phúng là những cảnh tượng trái với lẽ thông thường, tập trung rất nhiều điều trái với thuần phong mĩ tục được phóng đại lên để gây cười. Cảnh đưa tang là một cảnh trào phúng vì bề ngoài là đám tang nhưng thực chất lại mang tính chất đám hội, đám rước. Được tổ chức pha tạp, đám tang có cả âm thanh thuộc về nghi thức tang lễ và âm thanh không thuộc nghi thức tang lễ song cảm giác chung là nhốn nháo, ầm ĩ. Âm thanh thuộc tang lễ đó là tiếng kèn pha tạp, lẫn lộn cả kèn ta, tàu và Tây; tiếng khóc ” Hứt!..Hứt!.. Hứt!.” của Phán mọc sừng- một thứ âm thanh lạ lùng sẽ khiến người khác bật cười vì ngạc nhiên.Thực chất đây là hành vi ngụy trang che đậy cho mục đích thực sự của ông. Âm thanh không thuộc tang lễ là tiếng cãi cọ, chê trách nhau của đám người trong nhà. Tiếng cái cọ này sẽ phơi bày những mâu thuẫn ngấm ngầm dù luôn được dàn xếp trong vẻ ngoài êm đẹp. Đó còn là tiếng trêu chọc, đùa cợt thô lỗ, tục tĩu của đám ” giai thanh gái lịch” càng bộc lộ rõ sự tồi tệ, vô liêm xỉ tầng lớp thượng lưu. Hình ảnh trong đám tang có hình ảnh thuộc nghi lễ và không liên quan đến tang lễ song đều tạo ấn tượng về sự phô trương đầy kệch cỡm. Hình ảnh thuộc nghi lễ thông thường là vòng hoa, câu đối và người đưa tang nhưng nó xuất hiện với số lượng khổng lồ là 300 vòng hoa, 300 câu đối và mấy trăm người đi đưa. Nó cho thấy sức ảnh hưởng và mối quan hệ rộng rãi của gia đinh. Đó còn là y phục tang lễ tân thời do tiệm may Âu hóa thiết kế đã biến đám tang thành một cuộc trình diễn mốt để quảng cáo sản phẩm với mục đích kinh doanh. Hình ảnh thuộc nghi lễ là kiệu bát cống, lợn quay đi lọng; bộ y phục ” Ngây thơ” của cô Tuyết cùng những huân chương của các bạn cụ Cố. Một hình ảnh ấn tượng nhất với người đọc chính là tờ 5 đồng được gấp tư, thể hiện sự chuẩn bị chu đáo để hoàn thiện phần còn lại của bản hợp đồng. Nó cho thấy bản chất bỉ ổi và cũng là lời kết đầy chua chát về một xã hội vì tiền, chạy theo đồng tiền mà quên đi tình nghĩa.
Giọng điệu mỉa mai, chua chát là giọng điệu bao trùm chương truyện. Có những câu văn tưởng như là giọng trần thuật khách quan bình thản ” Đám cứ đi” nhưng khi nhắc đến hai lần nó đã mang ý nghĩa mỉa mai châm biếm đám ma thật to, thiên hạ tha hồ ngắm thật kĩ cái giả dối, vô nhân đạo của đám người ấy. ” Đám cứ đi” nghĩa là sự vô liêm sỉ không khép lại mà kéo dài tưởng như vô tận, nó kéo theo cái xác chết đến tận huyệt miệng. Về ngôn từ, tác giả đã sử dụng những kết hợp từ độc đáo trong các câu văn để tạo nên tiếng cười hài hước như ” vẻ buồn lãng mạn đúng mốt”, “chưa đánh mất cả chữ trinh”; những so sánh gây cười như ” Tuyết như bị kim châm vào lòng vì không thấy bạn giai đâu cả”
Tất cả những đặc điểm trên đã góp phần làm nên giá trị của nghệ thuật trào phúng Võ Trọng Phụng. Bằng tiếng cười mang ý nghĩa dả kích phê phán, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của xã hội thượng lưu tư sản thành thị đương thời. Đó là một xã hội băng hoại đạo đức, khô héo tình người, chạy theo lối sống văn minh rởm, vô cùng đồi bại, lố lăng. Đằng sau tiếng cười không phải niềm vui mà là nỗi đau đời , là khao khát đổi thay, muốn chôn vùi xã hội ấy. Qua đó thể hiện tấm lòng tốt đẹp, mong muốn con người tránh được sự suy đồi về đạo đức do xã hội bất lương tác động. Quan trọng hơn cả, nghệ thuật tào phúng đã thể hiện tài năng, phong cách riêng của Vũ Trọng Phụng.
Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng sắc bén đến lạnh lùng. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của xã hội thượng lưu thành thị buổi Âu hóa dưới chế độ thực dân nửa phong kiến cứ hiện lên rõ mồn một, trên đó nổi lên hai sự thực khắc nghiệt: sự tàn nhẫn, vô nhân đạo và sự giả dối, bịp bợm. Vũ Trọng Phụng đã đứng về phía nhân dân mà phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945
Bài mẫu số 3: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Mở bài:
“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết đặc sắc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Trong đó mỗi chương là một hài kịch chương XV “Hạnh phúc một tang gia” được đánh giá là một trong những màn hài kịch thành công nhất. Qua việc miêu tả đám tang của cụ Tổ, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cái bộ mặt xấu xa của trưởng giả, cái xã hội “khốn nạn”, “chó đểu” đương thời như cách nói của nhà văn.
Thân bài:
Tính chất trào phúng được thể hiện sâu sắc qua cái nhan đề đầy nghịch lí: “Hạnh phúc một tang gia”.
Ở đây, Vũ Trọng Phụng đã khai thác sự mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. Thông thường, cái chết bao giờ cũng gợi lên tâm trạng đau buồn, sầu não, xót thương. Nhưng trong trường hợp này lại khác: cái chết bất ngờ của cụ Tổ đã mang lại lợi ích và niềm vui lớn lao cho mỗi thành viên trong đám con cháu của người chết. Nhà có người chết mà lại vui, cảnh tang gia có bối rối thật như người ta thường nói nhưng đó là sự bối rối một cách sung sướng. Bối rối không phải tổ chức môt đám tang ma mà là để tổ chức một ngày hội, một đám rươc thì đúng hơn.
Trong chương này, Vũ Trọng Phụng cũng đã xây dựng được những bức chân dung trào phúng rất đặc sắc. Mỗi nhân vật hiện lên là một niềm “hạnh phúc” trong cảnh tang gia bối rối.
Cái chết của Cụ Tổ đã khiến cho mọi thành viên trong gia đình có tang cảm thấy “sung sướng và hạnh phúc” bởi họ nóng lòng chờ đợi cái giây phút này từ lâu. Điểm đặc sắc của nhà văn Vũ Trọng Phụng là ngoài việc thể hiện cái “hạnh phúc” chung của một tang gia; mỗi người trong gia đình lại có một “hạnh phúc” riêng, không ai giống ai. Chính thông qua sự miêu tả, cảm xúc tâm trạng mỗi người trước cái chết của cụ Tổ, nhà văn đã thể hiện rõ nét bản chất, tính cách của mỗi nhân vật. Hay nói cách khác, mỗi nhân vật trong gia đình cụ Cố Hồng lại có một đặc điểm, môt mâu thuẫn trào phóng riêng.
Nhân vật cụ Cố Hồng là con trai của người chết. Ông ta có một sở thích quái gở đó là thích đóng vai cụ già yếu, mặc dù tuổi tác chưa phải là cao (Ông ta bắt mọi người phải gọi mình là cụ Cố; lúc nào cũng tỏ ra ốm yếu).
Những bài cảm nhận về nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia tuyển chọn
Nhưng từ trước đến nay, cụ Cố Hồng mới chỉ diễn trò già yếu với đám con cháu trong nhà nay nhờ có đám tang của bố mình mà cụ có được cái may mắn, diễn trò già yếu trước con mắt của công chúng hàng nghì người. Mới nghĩ đến cảnh đám tang, ông đã thấy sướng run người. Cụ Cố Hồng đã nhắm nghiến lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy; vừa ho khạc, vừa khóc mếu máo để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Uí kìa, con dai lớn đã già thế kia kìa.
Với vợ chồng Văn Minh, sau cái chết của cụ Tổ, sẽ được chia một phần gia tài khá lớn; điều mà ông ta lo lắng lúc này là phải mời luật sư đến, chứng kiến cái chết của cụ Tổ: “để cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viễn vong nữa”. Đám ma của cụ Cố cũng là dịp hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mẫu trang phục táo bạo nhất: “nó có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”.
Sự lố lăng được đẩy lên cao hơn nữa khi xuất hiện hình ảnh cô Tuyết, cháu nội cụ Cố. Người cháu gái hiếu thảo này luôn mong ông nội chết để có dịp diện những bộ quần áo tân trang, hở hang đầy khiêu gợi. Trong đám đông nhốn nháo ấy cô lúc nào cũng mong sẽ có dịp gặp được tình nhân Xuân tóc đỏ để có dịp thể hiện lòng hiếu thảo giả tạo của mình và mong Xuân thấu hiểu cô. Và để diễn cho thật giống vói tâm trạng ấy, cô Tuyết luôn giữ vẻ mặt buồn rầu rất “lãng mạn và hợp thời”. Nhưng cô buồn không phải vì cái chết của ông nội mà vì chưa thấy mặt Xuân tóc đỏ.
Cậu Tú Tân, cháu nội người sắp chết, lại có một “niềm hân hoan” tuyệt vời khác. Cậu đã chuẩn bị cái máy ảnh từ lâu và luôn mong ngóng ông nội chết để có dịp sẵn sàng ghi lại những khoảnh khắc đau thương “tuyệt vời nhất”, mà ông nội vẫn chưa chịu chết, khiến cho cậu vô cùng bức bối muốn điên người lên. Và hôm nay chính là cơ hội để cậu phô diễn hết tài năng chụp hình của mình.
Ông Phán mọc sừng, chồng cô Hoàng Hôn, và là cháu của người quá cố. Không phải ai khác mà chính ông ta là nguyên nhân gây ra cái chết của cụ Tổ. Ông Phán tỏ vẻ vui mừng hả hê trước việc vợ mình ngoại tình và lợi dụng để tống tiền nhà vợ. Không ngờ điều đó lại khiến cho cụ Tổ bị sốc mà chết. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế.
Cảnh đám tang đã được nhà văn Vũ Trọng Phụng miêu tả bằng bút pháp trào phúng bậc thầy.
Cảnh đám tang được miêu tả hết sức trọng thể, phô trương, hình thức. Việc tổ chức đám tang rất hổ lốn theo kiểu Ta – Tàu – Tây (có kiệu bắt cổng, lợn quay đi lạng, có lốc cốc xoảng, có cái bu-dích,…)
Những người đi dự đám tang luôn cố tạo ra vẻ buồn rầu, nghiêm trang cho phù hợp với phong cảnh, nhưng những câu chuyện của họ thì rất sôi nổi đời thường và và chẳng liên quan gì đến người chết. Người đi đưa đám mà trang phục của họ thì như đi hội; có đủ mọi thứ, nhưng chỉ thiếu một thứ duy nhất đó là tình cảm sót thương, đau đớn tiễn đưa người chết.
Trong đám tang, Xuân tóc đỏ càng được dịp huyên hoang hơn vì nhờ có nó cụ Tổ lăn đùng ra chết (nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô cháu gái Hoàng Hôn khiến cụ uất lên mà chết) là cố vấn của tờ báo “Gõ mõ”, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám ma vì đã bổ sung vào sự long trọng của đám tang sáu chiếc xe chở sư cụ chùa Bà Đanh cùng với những vòng hoa đồ sộ. Việc làm của Xuân đã khiến cụ Phán bà-người đã từng chửi Xuân là đồ khốn nạn và đe sẽ nhổ vào mặt hắn cũng phải cảm động và sung sướng: “ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to. May mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi”.
Bản chất của nghệ thuật trào phúng là làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập (giữa bản chất và hiện tượng, giữa hình thức và nội dung, giữa lời nói và việc làm). Chính thông qua sự đối lập ấy làm nổi bật lên tiếng cười mỉa mai, trào phúng, chế giễu. Nói cách khác, bằng nghệ thuật trào phúng, nhà văn giúp người đọc lật mặt trái của xã hội, làm rõ sự thối nát, bất công của xã hội, cũng như con người.
Niềm vui và hạnh không chỉ biểu hiện trên gương mặt, dáng đi lời nói của mọi thành viên trong gia đình người chết mà còn lan tỏa ra những người xung quanh.
Hai viên cảnh sát Min Đơ, Min Toa đang thất nghiệp thì được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ Cố Hồng thì được kịp khoe khoang sự oai vệ, danh giá của mình: “ngực đầy những huy chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Môn Bội tinh, Vạn tượng bội tinh. Trên mép và cằm đều đủ râu ria…”.
Những người dân hàng phố thì vui vẻ náo nức vì chỉ mấy khi được xem một đám ma to như thế: “theo cả lối Ta-Tàu-Tây, có kiêu bắt cống, lợn quay đi lạng cho đến cốc xoáng và bu dích và vòng hoa. Có đến 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy những nhà tài tử chụp ảnh đang thi nhau như ở hội chợ”.
Có thể nói, cảnh đám tang diễn ra hết sức long trọng, vui vẻ; nó giống như một đám rước ngày hội vậy. Những người đến chia buồn và đưa ma, ai cũng cố tạo ra vẻ mặt buồn rầu và nghiêm chỉnh cho phù hợp với khung cảnh nhưng những câu chuyện trò to nhỏ của họ mới đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc làm sao. Người ta đến đây, nếu không phải để khoe những bộ ngực đầy huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về chuyện vợ con, chuyện mới sắm Lodi áo, mới mua một cái tủ, … Còn bọn thanh niên đến đám tang để có dịp tán tỉnh nhau, cười tình với nhau, ghen tuông nhau,hẹn hò nhau: “bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”.
Ở chương “Hạnh phúc môt tang gia” Vũ Trọng Phụng cũng đã chọn lựa được những chi tiết trào phúng rất tiêu biểu và đặt sắc. Qua những chi tiết này, nhà văn đã thể hiện được bản chất, tính cách của nhân vật – đằng sau cái vẻ bề ngoài đau đớn, thương xót là một bộ mặt giả dối, xấu xa và bỉ ổi.
Lúc đám tang dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn khiến cho người đọc hai chi tiết thật đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám lên tới đỉnh điểm. Chi tiết một là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một phải làm những động tác, tư thế đau buồn để cậu ta chụp ảnh.
Trong khi đó thì “bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mã khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chi tiết hai là ông Phán mọc sừng, cháu rể của người chết kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này đã đau đớn, khóc lóc tưởng chừng như ngất đi khiến ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy”. Vậy mà giữa lúc đoàn người khóc lóc, ông ta vẫn không quên kín đáo món tiền 5 đồng vì đã có công gọi ông ta là “người chồng mọc sừng” để kết quả là cụ Tổ chết và có đám ma to tát hôm nay.
Nghệ thuật trào phúng trong chương “Hạnh phúc một tang gia” còn được thể hiện ở ngôn ngữ và giọng điệu của nhà văn. Một thứ ngôn ngữ giọng điệu có vẻ nhẹ nhàng nhưng lại có sức công phá lớn.
Điệp ngữ “đám cứ đi” giúp cho người đọc hình dung ra được đám tang rất đông, rất dài, rất trọng thể. Điệp ngữ ấy cũng góp phần làm nổi bật sự phô trương giả dối, và cả sự dửng dưng về tình của những người đi đưa tiễn.
Kết bài:
Nếu “Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết thành công của Vũ Trọng Phụng thì chương “Hạnh phúc một tang gia” là môt trong những chương đặc sắc hơn cả. Ở chương này, nhà văn đã tạo nên được những mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng, những hành vi trào phúng, thậm chí cả những câu nói, giọng điệu trào phúng. Điệp ngữ “đám cứ đi” được nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần; vừa làm nổi bật tính chất giả dối phô trương của đám tang vừa nhấn mạnh sự thản nhiên vô tình của những người đi đưa tiễn.
Bài mẫu số 4: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực trào phúng bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại. Ông được mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc với lối miêu tả chân thật tới tàn ác, trào phúng tới chua xót. Hạnh phúc của một tang gia là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bằng nghệ thuật trào phúng ông đã khắc họa bức tranh lố bịch về cuộc sống của những người con trong một gia đình.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật gây cười nhằm đả kích, mỉa mai, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống. Nó được biểu hiện qua tình huống, chân dung các nhân vật biếm họa, nghệ thuật phóng đại, ngôn ngữ, giọng điệu đầy tính mỉa mai.
Hạnh phúc của một tang gia tạo nên sự mâu thuẫn bởi nhắc đến tang gia là nhắc đến gia đình có người mất. Lẽ ra, không khí bao trùm phải là sự ảm đạm, nỗi buồn thương trước sự ra đi của người đã khuất, nhưng ở đây, tác gỉ lị sử dụng từ hạnh phúc. Hạnh phúc mang một ý nghĩa vui vẻ, sung sướng, là thỏa nguyện được nỗi mong muốn bấy lâu nay chính vì thế mà nó ngụ ý đầy mỉa mai, trách móc. Chính nhan đề đã lột tả tính châm biếm, mỉa mai của một gia đình trước sự ra đi của một ai đó.
Tình huống truyện đăc sắc ở chố đoạn trích gắn liền với cái chết thật của cụ cố Tổ. Khi cụ còn sống, cụ đã lập di chúc để chia tài sản cho các con cháu sau khi qua đời, chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của con cháu với mong muốn cụ chết thật. Khi cụ cố Tổ ốm, thay vì tìm ra một thầy thuốc giỏi để điều trị thì lại tìm một bác sĩ không đúng chuyên ngành, hàng ngày nguyền rủa cho cụ cố chết thật nhanh để mang cái di chúc đó chia chác nhau. Tình huống còn đặc sắc ở chỗ khi tác giả nói “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật”, chết thật chứ không phải chết giả nữa khiến cho con cháu vui mừng khôn xiết.
Niềm vui ấy được thể hiện qua những nhân vật biếm họa của câu chuyện.
Cụ cố Hồng – con trai trưởng của người quá cố. “Cụ mơ màng đến lúc mặc đồ xô gai chống gậy ho khạc, mếu máo để cụ được phô trương với thiên hạ về gia đình đại phúc con cháu trưởng thành”. Đấy là niềm hạnh phúc riêng của cụ cố Hồng, con trai trưởng mong muốn được mặc đồ xô gai khi đáng lẽ ông phỉ là người không muốn nhất, ông phải là người đau buồn nhất nhưng lại trong trạng thái mơ màng đến kỳ lạ. Bản thân cụ hiểu “trên thông thiên văn dưới tường địa lý” nhưng thục chất lại là một con người không biết một cái gì. Cụ có dịp thỏa mãn lợi ích cá nhân, được mặc sức mà hút thuốc phiện, quát tháo mọi người và người ta đếm đến 1872 câu “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Rồi nỗi lo lắng làm sao để tổ chức cho đứa con gái đám cưới nhanh chóng cho đỡ tốn kém của nhà, để che đậy cái xấu xa, hư hỏng của gia đình danh giá.
Hướng dẫn Phân tích nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia
Ông Văn Minh – cháu đích tôn của cụ cố Tổ. Ông có niềm hạnh phúc kỳ quái với lý lẽ áp dụng “đúng lúc” và “kịp thời”, cái chúc thư đi vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Cái chết của ông nội là dịp may hiếm có để Văn Minh phô trương tiệm may Âu Hóa của mình. Rồi ông có nỗi niềm lo lắng là làm sao báo đáp công ơn của Xuân tóc đỏ đã có công làm cho ông nội mình chết nhanh nên Văn Minh vò đầu, bứt tóc, vẻ mặt đăm chiêu thật phù hợp với hoàn cảnh đám tang lúc đó.
Cô Tuyết – một cô gái lẳng lơ nhưng luôn cố gắng tỏ vẻ mình là người trinh tiết. Cái chết của cụ cố là dịp để cô chứng minh với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất chữ trinh. Cô diện những bộ trang phục ngây thơ đến lố bịch nhất, lả lơi với những vị quan khách tới dự đám tang củ cụ cố Tổ. Cô cố gắng đưa mắt nhìn trong đám người tới viếng mà không thấy bạn trai đâu cả, nên cô giận, cô buồn mang vẻ mặt “buồn lãng mạn” khiến ai cũng nghĩ rằng đứa cháu gái thương ông tới chà xát con tim.
Cậu Tú Tân và ông Phán mọc sừng tiêu biểu cho chân dung biếm họa lúc hạ huyệt. Tú Tân vui mừng, hả hê với chiếc máy ảnh nên bắt bẻ mọi người đứng trước cảnh hạ huyệt phỉ gục đầu, chống gậy, cong lưng… chẳng khác nào một bộ phim có người đạo diễn khó tính để lưu lại cảnh đau buồn giả dối nhất từ trước tới nay. Còn ông Phán mọc sừng thì khóc đến oặt cả người đi mãi không thôi. Tiếng khóc tưởng chua xót vang lên những thanh âm của sự giả dối: “Hứt… hứt… hứt…”, một sự lố bịch quá rõ với mục đích dúi tiền cho Xuân Tóc đỏ như một sự liên minh, trao đổi thanh toán một cách song phẳng.
Nghệ thuật phóng đại đã được nhà vưn sử dụng triệt để miêu tả sự đối lập giữa của con người giữ hình thức với bản chất bên trong. Giọng điệu mỉa mai, hài hước, ngôn ngữ lai căng, ám thị chơi chữ… tất cả để tạo nên một tiếng cười chua xót, lời nguyền rủ chua cay, độc địa trong xã hội thối nát.
Bằng tài năng của mình, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa nên một bức tranh phản diện về xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Một gia đình với những đại diện tiêu biểu nhất, với mặt trái xấu xa nhất, giả tạo nhất đã được khắc họa thành công. Tác phẩm để lại tiếng vang lớn trong lòng người đọc bỏi các tình tiết khiến người ta phải nghĩ suy.
Bài mẫu số 5: Nêu cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia
Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Khối căm ghét của ông đối với xã hội thối nát không còn là một lời chửi rủa tuyệt vọng nữa mà nổ ra thành một trận cười sảng khoái, có sức công phá mạnh mẽ tung vào giữa những cái lố bịch, kệch cỡm của xã hội đương thời.
Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt nhất là chương Hạnh phúc của một tang gia.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến bực nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc?! Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng suy ngẫm kĩ trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chận thực, hợp lí.
Ở đám tang cụ Tổ, ai cũng vui như tết con cháu, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết.,, cũng thấy đây là một dịp may hiếm cổ để mình thỏa mãn một nguyện vọng, hay một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lựu, quý phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, dứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Ngược lại, cái chết của cụ đã đem đến cho họ một niềm vui to lớn không che giấu nổi – một hạnh phúc: Cái chết đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm cũng vui sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phổ, gọi phường kèn, thuê xe đám tang… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Bài văn cảm nhận về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương Hạnh phúc của một tang gia mẫu số 5
Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ rất hào hứng, phấn khởi vì cậu có dịp trổ tài và sử dụng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Vãn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ dược mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mẩn trắng viền đen… để quáng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ.
Còn người con trai của cụ Tổ sung sướng vì một lý do khác lớn hơn. Cụ Cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kìa kìa.
Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có nổi một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) thì khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một sổ tiền vài trăm nghìn đồng. Chính ông không ngờ ràng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt, xuyên suốt hoạt cảnh này.
Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay. Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đi đưa nghiêm nghị thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tại, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-xích…
Đám ma trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typhono. Đó là cô Tuyết với bộ y phục ngây thơ khá hở hàng với nét mặt cố tạo một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn ảo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn đám ma. Đó là bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…
Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến dám bạn bè, quan khách của tang chủ, những kẻ đi đưa đám không phải để chia buồn mà cố khoe các thứ huy chương, mề đay đeo đầy ngực và các kiểu râu ria tân thời nhất. Hoặc là đám phụ nữ quí phái, đám giai thanh gái lịch đang đeo đuổi, học đòi phong trào Âu hóa, vừa, đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những điều đó bàng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma .Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn. lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài củng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đắng sau cái phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh vô lí, của bọn người giàu sang, hãnh tiến và vượt lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lí(a mình và lừa người mà xã hội thời ấy mặc nhiên công nhận.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giông nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tố lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mây trăm con người và gây ân tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo gõ mõ. Điều này khiến cho cụ Phán bà càng thêm sung sướng: giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi, và cô Tuyết người yêu của hắn cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.
Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Nó được dàn dựng như một vở kịch mà bàn tay đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn. Cậu Tú Tân bắt từng người phải chông gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng. Ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật. Ồng chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động hay như một bức biếm họa khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự cho là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của nó.
———————HẾT———————-
Để nắm vững kiến thức môn Ngữ văn lớp 11, sau khi củng cố kiến thức bài học Hạnh phúc của một tang gia, các em có thể tham khảo thêm một bài học đặc biệt quan trọng khác trong chương trình lớp 11 là Chí Phèo. Các em có thể củng cố kiến thức qua bài học: Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, Nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức trước Cách mạng qua nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo của Nam Cao, Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục