Đề bài: Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
This post: Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
I. Dàn ý Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Chuẩn)
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác phẩm
– Bài văn tế là khúc tráng ca của những người nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
2. Thân bài
a. Giới thiệu hoàn cảnh ra đời bài văn tế:
– Được viết bởi Nguyễn Đình Chiểu dưới yêu cầu của tuần phủ Gia Định – Đỗ Quang.
– Được ra đời sau khi đội quân nghĩa sĩ Cần Giuộc tấn công vào đồn Pháp, giết chết tên quan hai mang người Việt. Nhưng có hơn hai mươi nghĩa sĩ tử trận.
– Bài văn đã khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân và được hưởng ứng nhiệt liệt.
– Là khúc tráng ca về tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
b. Mở đầu bài thơ là sự khái quát về tình hình thời đại và khẳng định sự bất tử về tiếng thơm của người nghĩa sĩ nông dân.
– Mở đầu “Hỡi ôi!”: lời than khóc, tiếc thương, lời hiệu triệu vong linh nghĩa sĩ.
– Tái hiện khung cảnh thời đại “Súng giặc … trời tỏ: Đất nước đang bị xâm lược – lòng căm thù quân giặc của người dân thấu tận trời xanh.
– Khẳng định sự bất tử của tượng đài người nghĩa sĩ
– Nghệ thuật đối lập (chưa ắt danh nổi như phao – tiếng vang như mõ).
c. Hình ảnh những người nghĩa sĩ nông dân
– Nguồn gốc xuất thân:
+ Là những người dân nghèo, chỉ biết chăm chỉ, hiền lành, “cui cút làm ăn” => Họ là những người dân chất phác, nghèo khổ quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.
+ Tác giả sử dụng những từ “chưa quen, chỉ biết”, “vốn quen, chưa biết” : Họ là những người nông dân chỉ biết làm ăn, lao động, chưa từng động binh đao.
– Tấm lòng yêu nước của những người nông dân.
+ Diễn biến tâm trạng của người nông dân: Giặc đến, người nông dân lo sợ “tiếng phong hạc… tháng” => trông chờ quan quân tới giúp “trông tin … mưa” => ghét bọn ngoại xâm “ghét thói … cỏ” => căm thù “bữa thấy …cắn cổ” => đứng lên chống lại kẻ thù “nào ai … bộ hổ”. => Diễn biến trong tâm trạng của người nông dân có sự chuyển hóa phi thường.
+ Họ nhận thức về trách nhiệm với Tổ quốc nên tự nguyện ra nhập quân đội, chiến đấu tự nguyện, dù biết sẽ hi sinh: “Nào đợi ai … bộ hổ”, “Một chắc sa … treo mộ”, “chẳng phải án …đáng số”.
+ Họ nhận thức được sự tàn bạo trong sự cai quản của thực dân Pháp, nên nhất tề đứng dậy khởi nghĩa “Vì ai …thêm buồn”.
– Tinh thần chiến đấu quả cảm, không ngại hi sinh của người nghĩa sĩ:
+ Họ chỉ là những người nông dân “dân ấp dân lân” không phải “quân cơ quân vệ” những vẫn hăm hở tòng quân “mến … chiêu mộ”.
+ Họ ra sức rèn luyện “Mười tám …bày bố” để có thể đi đánh giặc.
+ Quân trang của họ thô sơ: “Ngoài cật … con cúi” đối lập với quân trang tối tân của giặc “thằng Tây … to”, “tàu sắt tàu đồng”.
=> Thế nhưng họ vẫn chiến đấu hết mình “nào sợ …chẳng có”, lập được chiến công “đốt xong… kia”, “chém rớt …hai nọ”, khiến cho lũ giặc kinh hồn “làm cho … hồn kinh”.
+ Nghệ thuật đối lập giữa đội quân áo vải và lũ giặc Pháp => tăng sự anh dũng, hào hùng của những người nghĩa sĩ. Nhịp văn khẩn trương, cao độ như khí thế đánh trận sục sôi.
– Bức tượng đài người nông dân nghĩa sĩ sừng sững hiên ngang.
– Sự tiếc thương, cảm phục của tác giả dành cho nghĩa sĩ đã hi sinh:
+ Hình ảnh những gia đình tang tóc “Đau đớn …trước ngõ”: Bầu không khí tang thương + Niềm cảm thương sâu sắc của tác giả.
+ Sự hi sinh anh dũng của họ được nói lên bằng cảm xúc tôn kính, tự hào, thương tiếc.
– Ca ngợi chiến công và bức tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ:
+ Khẳng định sự tiếc thương của người dân cả nước dành cho những người nghĩa sĩ “Nước mắt …vương thổ”.
+ Nêu cao tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của những người lính “Ôi … tiết rỡ”.
=> Khúc ca bi tráng dành cho những anh linh nghĩa sĩ anh hùng.
+ Nghệ thuật: Nhịp văn bồi hồi, chậm rãi, xúc động như để tưởng nhớ.
3. Kết bài
– Khẳng định hình tượng bất tử của người nghĩa sĩ
– Nghệ thuật xây dựng hình tượng kết hợp nhuần nhuyễn với trữ tình. Ngôn ngữ bình dị, gần gũi, trong sáng.
II. Bài văn mẫu Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
1. Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 1 (Chuẩn)
Có những cuộc đời còn sống mãi cùng non sông, đó là những con người dâng hiến tất cả tình yêu, sự hi sinh và cả sự sống cho sự trường tồn của non sông đất nước. Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm nào tuy hi sinh khi tuổi đời còn trẻ nhưng tình yêu nước, tấm lòng của họ mãi được hậu thế trân trọng và lưu danh đến muôn đời. Và bài tế “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu viết ra để tế lễ họ có thể coi là một khúc tráng ca của những người anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang, lẫm liệt.
Vào năm 1859, thực dân Pháp đánh phá ba tỉnh miền đông Nam Bộ. Đến tháng 12/1861, chúng đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Ngày 16/12/1861, nghĩa quân ba xứ nhất tề tập hợp, nổi dậy, tập kích đồn giặc của Pháp, giết được tên quan người Việt theo Pháp và một số lính thuộc địa. Trong trận chiến này, hơn hai mươi người của nghĩa quân đã hi sinh nhưng nó đã làm dậy lên tinh thần yêu nước, ý chí sục sôi quyết bảo vệ non sông của những người dân Việt Nam. Bởi vậy, Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế này nhằm khích lệ tinh thần của các nghĩa sĩ với lý tưởng “chết vinh còn hơn sống nhục”. Bài văn đã được hưởng ứng và truyền tụng đi khắp nơi và lần đầu tiên trong văn học dân tộc, hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm được dựng thành một tượng đài nghệ thuật bất tử.
Mở đầu bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu luận về lẽ sống chết, tái hiện bối cảnh lịch sử thời đại hào hùng và khẳng định tượng đài bất tử của người nghĩa sĩ nông dân. Mở đầu bằng từ “Hỡi ôi!”, ông như muốn bày tỏ sự thương tiếc, tiếng nấc nghẹn dành cho những người đã ngã xuống và cũng như lời gọi mời những anh linh các nghĩa sĩ yêu nước trở về nghe lại chiến tích của mình ngày nào. Câu tiếp theo, ông gợi lên hình ảnh của thời đại với cuộc xâm lược của thực dân Pháp với sức mạnh của những vũ khí tối tân “súng giặc đất rền” làm rung chuyển cả đất trời. Phía bên kia đối lập là hình ảnh những người nghĩa sĩ với một lòng quyết tâm giết giặc thấu tỏ đến tận trời xanh “lòng dân trời tỏ”. Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn chỉ là những người nông dân hiền lành, quanh năm chân lấm tay bùn, chỉ biết quen thân với đồng ruộng, “mười năm vỡ ruộng, chưa ắt danh nổi như phao”, thế nhưng khi giặc đến dày xéo quê hương, họ quyết tâm đứng dậy đánh đuổi giặc ngoại xâm. Tuy rằng hi sinh nhưng tiếng thơm vì tình yêu nước thì còn lưu truyền mãi “tuy mất nhưng tiếng vang như mõ”. Nghệ thuật đối lập mà Nguyễn Đình Chiểu dùng ở đây đã làm nổi bật lên khung cảnh của thời đại khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đồng thời cũng khẳng định sự quyết tâm đánh đuổi giặc của những người nghĩa sĩ nông dân và tiếng thơm của họ còn lưu danh muôn thuở.
Sau phần khẳng định về sự bất tử của hình tượng người nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục làm rõ thêm về hình ảnh những người nghĩa sĩ đã quên mình vì đất nước ấy.
Những người nghĩa sĩ ấy vốn chỉ là những người nông dân hiền lành, “cui cút làm ăn, toan lo khó nghèo”, chẳng hề biết tới binh đao, cung trường ngựa đấu. Họ “cui cút làm ăn” trong âm thầm, lặng lẽ, không có ai để nương tựa, vậy mà vẫn khó nghèo cả một đời. Chỉ một câu thôi cũng đã làm hiện lên đầy đủ cái vòng luẩn quẩn không lối thoát của những người nông dân Việt. Bắt đầu “cui cút” làm ăn từ sớm, vật lộn để có cái ăn, chỉ quanh quẩn với xóm làng, con trâu cái cày, vậy mà kết thúc vẫn trong nghèo khó. Họ nào biết tới “cung ngựa, trường nhung”, cả đời “mắt chưa từng ngó” tới “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”. Thế nhưng, đất nước lại bị bọn quân thù giày xéo, họ – những người nông dân chất phác ấy lại phải sống hàng ngày trong lo sợ bị quân giặc đuổi đánh “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, trông chờ quan quân tới dẹp lũ giặc mà “như trời hạn trông mưa”, càng trông lại càng chẳng thấy. Họ căm ghét lúc giặc mọi rợ, “vấy vá “tanh hôi” như “nhà nông ghét cỏ”. Họ căm hờn những kẻ “văn minh” đang giẫm đạp đất nước họ bằng “bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan”, bằng “ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”. Vậy nên, khi có lời hiệu triệu đứng lên chống lại quân thù, họ đã chẳng ngại ngần mà đứng lên trở thành những dũng sĩ chống lại giặc Pháp, cứu nước cứu nhà, bảo vệ manh áo miếng cơm. Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo nhấn mạnh vào tinh thần yêu nước và tinh thần tự giác của những người nông dân ấy:
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”.
“Nào đợi ai đòi ăn bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trống ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Vì yêu nước, những người nông dân quyết đem tâm sức để đánh đuổi quân thù, tự nguyện ra nhập hàng ngũ, chẳng chờ đợi “ai đòi ai bắt”.
Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện chân thực cuộc sống của những người nông dân trước và sau khi giặc tới bằng bút pháp hiện thực và cả trữ tình nữa. Ông sử dụng biện pháp đối lập “chưa quen, chỉ biết”, “vốn quen, chưa từng” để làm nổi bật lên tầm vóc anh hùng của họ. Đồng thời qua đó, ông cũng bộc lộ niềm kính phục xen lẫn tự hào đối với những người nghĩa sĩ Cần Giuộc chí công vô tư ấy. Nếu như khi xưa, những người nông dân bị bắt đi lính cho những cuộc chiến tranh phi nghĩa với thái độ đau khổ:
“Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa”
Thì những người lính nông dân ở đây lại tự giác xung vào quân đội với sự vui vẻ, thái độ vô tư, tinh thần yêu nước và trách nhiệm với dân tộc. Họ chẳng chờ ai giục ai đòi đã hăm hở nhập ngũ. Dẫu họ biết rằng, ra trận “chữ hạnh” khó giữ, “nào ngờ da ngựa bọc thây, trăm năm âm phủ ấy chữ quy”. Thế nhưng, ngoái trông nhìn thấy sự tàn bạo của quân giặc, sự tàn phá chúng để lại khiến “cây cỏ mấy dặm sầu giăng”, “già trẻ hai hàng lụy nhỏ” khiến cho họ càng muốn tự giác xung quân “vi binh” để đánh tan lũ giặc “cho cam tâm”.
Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng diễn biến tâm trạng của những người nghĩa sĩ để thổi lên tượng đài người nông dân nghĩa sĩ anh hùng. Họ từ những người nông dân hiền lành, chịu khó làm ăn, chỉ biết trông chờ tin quan tới dẹp giặc, vậy mà càng trông càng không thấy trở thành những nghĩa sĩ anh dũng, tự mình chống lại kẻ thù. Họ căm hờn những kẻ đã phá tan ruộng vườn của họ “bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”, căm ghét những kẻ khiến “quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương”, những kẻ đã “quăng vùa hương, xô bàn độc” của họ. Vậy nên họ đứng lên theo tinh thần của tổ tiên truyền lại “đặng câu địch khái, về theo tổ phụ”
Tinh thần những người nghĩa sĩ ở đây đã chuyển hóa phi thường, từ lo sợ, đợi chờ, tới khi quyết tâm tự mình đứng lên chống trả, tạo nên hình tượng những người nghĩa sĩ anh dũng, bất tử trong lòng người dân quê hương.
Hai ngày để tập hợp đội nghĩa binh, chỉ hai ngày ngắn ngủi mà không có sự giúp sức của quan quân triều đình. Họ thiếu thốn đủ thứ, vũ khí, trang bị, lại chỉ là những “dân ấp dân lân” chỉ vì “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, thế nhưng họ vẫn hăm hở rèn luyện hết sức:
“Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố”.
Những người nghĩa sĩ ấy chẳng có gì ngoài sức mạnh tinh thần. Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên sự khắc họa đối lập giữa quân giặc với đội quân dũng sĩ quê hương. Giặc Pháp với vũ khí tối tấn, với “tàu sắt, tàu đồng”, rồi “đạn to đạn nhỏ”, với bọn lính đánh thuê thiện chiến “mã tà ma ní”.Còn đội quân của chúng ta chỉ có “một manh áo vải”, vũ khí là “một ngọn tầm vông”, “dao tu, nón gõ”, “hỏa mai đánh bằng rơm cơm cúi”. Thế nhưng đội quân ấy lại lập được những chiến công vang lừng “đốt xong nhà dạy đạo kia”, “chém rớt đầu quan hai nọ”.
Bài văn tế cũng tái hiện lại cảnh giao tranh ác liệt, sục sôi ý chí giữa hai bên:
“Chi nhọc quan quản trống kì thúc giục, đạp rào lướt tới, coi giặc như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn to đạn nhỏ, xô cửa xông tới, liều mình như chẳng có”.
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bộn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Không khí trận chiến thật ác liệt, có tiếng trống thúc quân, tiếng gọi nhau vang dậy đất trời, hòa cùng tiếng súng nổ liên hồi. Các nghĩa sĩ Cần Giuộc chẳng quản tính mạng “liều mình như chẳng có” xông vào đồn giặc như vũ bão, “đâm ngang, chém ngược” khiến cho kẻ thù phải “hồn kinh”. Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần quyết tử, dũng cảm, kiên cường của những người lính Cần Giuộc. Đồng thời ông cũng bày tỏ lòng khâm phục sâu sắc trước họ – những người nghĩa sĩ nông dân. Đây là tác phẩm đầu tiên trong đời của ông với hình tượng là người nghĩa sĩ nông dân áo vải. Nhưng ông đã dựng lên tượng đài bất tử về người nghĩa sĩ nông dân đánh giặc, cứu dân cứu nước.
Kết lại bài văn tế là sự cảm thương, sự thương tiếc của tác giả trước sự hi sinh anh dũng của những người nghĩa sĩ và lời khẳng định tấm gương của họ sẽ còn lưu mãi tới muôn đời sau.
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng những lời văn đẹp đẽ nhất để dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ. Thế nhưng, ông cũng không che giấu đi những sự tiếc thương, sự thật đau lòng khi những người nghĩa sĩ đã phải ngã xuống. Hình ảnh người “mẹ già khóc trẻ”, “vợ yếu chạy tìm chồng” khiến cho chúng ta cảm thấy thật thống thiết, bi thương:
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Lời văn thật thống thiết, lâm li, bi ai. Hình ảnh những người nghĩa sĩ ngã xuống:”đâu biết xác phàm vội bỏ” khiến chúng ta vô cùng đau xót. Tiếng khóc nghẹn của người mẹ già, người vợ trẻ đều khiến chúng ta vô cũng xúc động, cảm thương.
Họ – những người nghĩa sĩ đã sống và chiến đấu anh dũng, hết mình cho Tổ quốc. Họ hi sinh với sự vẻ vang, với tiếng thơm muôn đời con mãi. Họ ngã xuống nhưng khẳng định một điều rằng: Đất nước của họ là độc lập, tự chủ, không một ai có quyền xâm lấn, nếu không, họ sẽ cầm súng, cầm dao, giáo mác, đứng lên mà đánh đuổi kẻ thù. Họ chính là những tấm gương anh dũng nhất, đáng tự hào nhất:
“Ôi!
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc ấy là ngọn đèn, là tấm gương soi sáng cho dân tộc Việt Nam về tinh thần yêu nước, về bài học quý báu: “chết vinh còn hơn sống nhục”:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được nguyện trả thù kia”
Công lao của họ sẽ còn mãi được ghi danh trong dòng lịch sử dân tộc:
“Nước mắt anh hùng chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tiếng khóc bi tráng dành cho tượng đài những người lính nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc dũng cảm trong thời kì đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng hình tượng độc đáo, nhuần nhuyễn với chất liệu trữ tình, tính hiện thực cùng ngôn ngữ bình dị, sinh động đã tạo nên một trong những tượng đài người nghĩa sĩ đẹp nhất trong dòng lịch sử dân tộc ta.
Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” không chỉ khẳng định một lòng yêu nước thiết tha của những người nông dân áo vải, của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu mà còn là lời tự hảo, lời cảm tạ sâu sắc của những người dân Việt Nam tới những người nghĩa sĩ áo vải kiên trung đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù, bảo vệ quê hương. Họ là những tấm gương sáng về sự dũng cảm, tinh thần bất khuất, chí công vô tư, về lòng yêu nước nồng nàn mà các thế hệ chúng ta sau này phải luôn ghi nhớ và học tập.
Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” với ” lòng dân trời tỏ”. Nghệ thuật ấy đã mở ra một hoàn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực, kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ thuật đối về thời gian: “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây”, chính “mười” và “một” ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.
Những bài văn Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất
Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi công đức phẩm hạnh của người nông dân- anh hùng dân tộc.
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó…..”
Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nông dân cui cút làm ăn, chịu thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm làng với công việc quen thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy… đâu biết đến “cung ngựa, trường nhung”, đâu biết tập khiên súng gì. Nghe thấy “phong hạc”, họ ngóng trông triều đình đưa ra kế sách để chống lại quân giặc, thế mà triều đình nhu nhược, không lo toan được việc nước, làm lòng dân càng thêm căm phẫn: ” Bữa thấy bòng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.”
Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với chiến tranh, nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển biến trong tâm hồn họ, họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước căm thù giặc, tự nguyện đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực sinh động gần gũi với tiếng ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn ( manh áo vải, ngọn tầm vông, dao tu, nón gõ) và nó đối lập hoàn toàn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ xâm lược ( tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Bằng loạt ngôn ngữ góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xô, xông,.. Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy khí thế xông lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất, xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi kịch đối với đất nước ta trong thời kì lịch sử đen tối ấy.
Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình. Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lí “chết vinh còn hơn sống nhục”, đấu tranh tới cùng dù chết, còn hơn chung sống làm nô lệ cho bọn ngoại xâm. Những dòng cuối là những tiếng khóc thể hiện niềm tiếc thương ấy, bi mà không lụy, nó tiếp tục ca ngợi công lao của chiến binh , nó còn cổ động, thúc giục, khích lệ những người còn sống sẽ tiếp tục sự nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật, những nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực, ngôn ngữ trong sáng, đâm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng. Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
2. Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 2:
Nguyễn Đình Chiểu – một con người được mệnh danh là ngôi sao sáng trên bầu trời dân tộc. Ông không chỉ là một người thầy giáo mẫu mực, một người thầy lang y đức mà còn là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Ông luôn dùng văn chương để chiến đấu vì chính nghĩa. Ta có thể thấy rõ sự chính nghĩa ấy thông qua tác phẩm nổi tiếng và vang mãi sau này của ông ” Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Ông đã dựng lên bức tượng đài bất tử về nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng trong thời kì lịch sử bi thương của dân tộc.
Mở đầu tác phẩm nhà văn đã kết hợp một câu cảm thán với nghệ thuật đối lập:
“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy mà mất tiếng vang như mõ.”
Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” với ” lòng dân trời tỏ”. Nghệ thuật ấy đã mở ra một hoàn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực, kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ thuật đối về thời gian: “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây”, chính “mười” và “một” ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.
Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi công đức phẩm hạnh của người nông dân- anh hùng dân tộc.
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó…..”
Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nông dân cui cút làm ăn, chịu thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm làng với công việc quen thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy… đâu biết đến “cung ngựa, trường nhung”, đâu biết tập khiên súng gì. Nghe thấy “phong hạc”, họ ngóng trông triều đình đưa ra kế sách để chống lại quân giặc, thế mà triều đình nhu nhược, không lo toan được việc nước, làm lòng dân càng thêm căm phẫn: ” Bữa thấy bòng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.”
Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với chiến tranh, nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển biến trong tâm hồn họ, họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước căm thù giặc, tự nguyện đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực sinh động gần gũi với tiếng ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn ( manh áo vải, ngọn tầm vông, dao tu, nón gõ) và nó đối lập hoàn toàn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ xâm lược ( tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Bằng loạt ngôn ngữ góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xô, xông,.. Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy khí thế xông lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất, xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi kịch đối với đất nước ta trong thời kì lịch sử đen tối ấy.
Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình. Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lí “chết vinh còn hơn sống nhục”, đấu tranh tới cùng dù chết, còn hơn chung sống làm nô lệ cho bọn ngoại xâm. Những dòng cuối là những tiếng khóc thể hiện niềm tiếc thương ấy, bi mà không lụy, nó tiếp tục ca ngợi công lao của chiến binh , nó còn cổ động, thúc giục, khích lệ những người còn sống sẽ tiếp tục sự nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật, những nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực, ngôn ngữ trong sáng, đâm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng. Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
3. Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 3:
Thời gian cứ thế trôi qua nhưng những gì là giá trị, là vẻ đẹp cao quý thì luôn còn mãi. Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, oanh liệt có những mất mát cũng quá nhiều. Trong cuộc nổi dậy chống Pháp, những người nghĩa sĩ Cần Giuộc tuy đã hi sinh nhưng vẻ đẹp hào hùng, bi tráng của họ mãi trường tồn cùng thời gian. Bởi vậy, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là áng văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong nước, nổi lên những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Đến năm 1861, những người nghĩa sĩ nông dân quả cảm đã tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc, khiến một số quan quân của giặc và tên tri huyện tay sai bị tiêu diệt. Song thật không may, đã có khoảng hơn 20 nghĩa sĩ đã hi sinh. Xúc động trước tình cảnh đó, Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hi sinh trong trận này.
Mở đầu tác phẩm, trong phần Lung khởi, tác giả tái hiện tình cảnh đau thương của dân tộc với tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Tác giả đã ca ngợi tấm lòng của nhân dân tỏa sáng dù vũ khí quân đội vắng mặt. Đồng thời, nhà thơ cũng khái quát về hai quãng đời của người nông dân nghĩa sĩ: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tuy quãng thời gian làm nông dân rất dài, sống một cuộc sống bình yên, song họ sẵn sàng làm nghĩa sĩ chống giặc trong thời gian ngắn, để rồi danh thơm còn mãi với muôn đời. Họ là những người trượng nghĩa, mang tinh thần xả thân sẵn sàng đứng lên chống lại quân giặc.
Trong phần Thích thực từ câu 3 đến câu 15, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân trong cuộc sống đời thường và trong chiến tranh. Họ vốn xuất thân là những người nông dân quanh năm ngày tháng chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, nhưng khi giặc xâm lược, họ giờ đây không còn “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Vẻ đẹp bình dị của những người nông dân chân lấm tay bùn giờ đây trở nên huy hoàng hơn bao giờ hết bởi tinh thần căm thù giặc sâu sắc ngùn ngụt chất chồng. Họ bày tỏ cảm xúc của mình một cách chân thật “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Họ nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc – đó là tham gia chiến đấu. Họ vào trận với “manh áo vải làm đồng” và những dụng cụ lao động thô sơ như ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Vậy mà, chỉ với tinh thần dũng cảm, họ có thể tham gia trận công đồn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Họ chiến đấu với hành động dứt khoát, mạnh mẽ: “đốt”, “chém”, “đạp rào”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,… Bởi vậy, họ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ: “mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Phần Ai vãn từ câu 16 đến câu 25 bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và của nhân dân đối với người nông dân nghĩa sĩ. Đó là nỗi đau đớn khôn nguôi của thân nhân nghĩa sĩ: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Đó còn là nỗi căm giận tội ác kẻ thù hòa chung tiếng khóc nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước: “Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”. Xót xa là thế nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn khẳng định sự hi sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc là anh dũng, là cao cả: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
5 câu thơ kết đã ca ngợi công lao bất diệt của những người nghĩa sĩ. Họ là những người “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó”. Thái độ tôn kính mà đau xót của tác giả không chỉ thể hiện qua từ ngữ trang trọng mà còn ở giọng điệu trầm buồn. Sự mặc niệm, nấc nghẹn đau đớn của Nguyễn Đình Chiểu ở cuối bài: “Hỡi ôi thương thay/ Có linh xin hưởng” cũng thể hiện tấm lòng ngợi ca công đức theo hướng vĩnh viễn, muôn đời.
Qua việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, bút pháp hiện thực cùng giọng điệu trữ tình thống thiết, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tượng đài ca ngợi người nghĩa sĩ Cần Giuộc, đồng thời cũng là tiếng khóc lớn của tác giả dành cho những người hi sinh và cho cả tình cảnh đau thương của đất nước. Bởi vậy, tác phẩm luôn song hành cùng thời gian bởi giá trị vĩnh hằng mà nó đóng góp.
———————–HẾT—————————
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác và đây là một trong số những tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 11. Không chỉ có bài làm văn Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, thầy cô và các bạn còn dễ dàng tìm hiểu thêm các bài làm văn mẫu khác như Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Hình ảnh người nông dân qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Quan niệm về người anh hùng trong Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, hay cả những phần Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Hi vọng với tài liệu hữu ích sẽ hỗ trợ quá trình học tập của các em học sinh hiệu quả hơn.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục