Đề bài:
Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh
This post: Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối của tác giả Hồ Chí Minh được chú ý bởi bí ẩn mà lại không bí ẩn, nên thơ mà lại rất cách mạng. Tuyển tập văn mẫu 11 của Mầm Non Ánh Dương đã tổng hợp và biên soạn các nội dung phù hợp để các em học sinh làm đề bài cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài Chiều tối thật hay và dễ dàng.
Dàn ý Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối
1. Mở bài
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác của tập thơ Nhật kí trong tù: năm 1942, Hồ Chí Minh trên con đường hoạt động cách mạng bị quân Tưởng Giới Thạch bắt ở Trung Quốc và rơi vào cảnh ngộ tù đày gian lao khổ ải, trong lúc phong trào cách mạng ở nước ta đang rất cần sự có mặt của Người.
– Nhật kí trong tù được viết trong một tình thế đặc biệt: “Ngâm thơ ta vốn không ham – Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây”. Một tập nhật kí chỉ nhằm ghi lại một cách chân thật những gì tác giả nếm trải ở chốn lao tù, vậy mà qua Nhật kí trong tù, chúng ta thấy hiện lên hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh – một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn.
2. Thân bài
Cần làm nổi bật những nội dung cơ bản sau:
– Tâm hồn lớn: đó là một trái tim tràn đầy tình yêu thương và nhạy cảm trước thiên nhiên, cuộc sống.
+ Một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên: dù ở bất kì hoàn cảnh nào (trong ngục, trên đường chuyển lao), dù thể xác luôn bị đày đoạ, Người vẫn phát hiện và rung động trước cái đẹp (một làn hương hoa bay vào nhà ngục, một ánh trăng lọt qua khe cửa buồng giam, một buổi chiều nơi núi rừng với “Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng”,…) bằng trái tim đồng điệu của một thi nhân.
+ Nhưng hơn hết, đó là một trái tim đồng cảm, yêu thương mọi thân phận, mọi cảnh ngộ; đồng cảm với mọi nỗi buồn; trân trọng mọi niềm vui và lòng tốt của con người (từ một tiếng khóc trẻ thơ, một cuộc gặp gỡ “Anh đứng trong cửa sắt
– Em đứng ngoài cửa sắt” đến hình ảnh một cô thiếu nữ xay ngô bên bếp lửa, một cảnh “Làng xóm ven sông đông đúc thế – Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”, một Trưởng ban họ Mạc “Chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân”,…). Trong bất kì hoàn cảnh nào, Người đều quên đi nỗi buồn, nỗi đau của riêng mình để chia sẻ hết mình nỗi buồn và niềm vui của con người.
– Trí tuệ lớn: đó là một trí tuệ sáng suốt, thể hiện ở tầm nhìn sắc sảo, sâu rộng trước những biểu hiện của cuộc sống xung quanh:
+ Người đã nhận ra hiện thực xã hội Trung Hoa với tất cả mặt trái của nó và đã thể hiện bằng một ngòi bút châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay (một xã hội Lai Tân “vẫn thái bình” mà mọi guồng quay đều đảo ngược; một người phụ nữ có chồng trốn đi lính đã được “Quan trên xót nỗi em cô quạnh – Nên lại mời em tạm ở tù”;…).
+ Người đã nhận ra những quy luật sâu sắc từ những biểu hiện thường nhật của cuộc sống (Trong ngục giờ đây còn tối mịt – Ánh hồng trước mặt đã bừng soi; Hết mưa là nắng hửng lên thôi; Hết khổ lá vui vốn lẽ đời,…), để trong cảnh ngục tù, Người vẫn suy nghĩ vẽ cách mạng, về trách nhiệm của một thi nhân – chiến sĩ: “Nhà thơ cũng phải biết xung phong”,..
– Dũng khí lớn: Hồ Chí Minh có một sức mạnh tinh thần lớn lao. Người luôn lạc quan trước mọi cảnh ngộ chốn lao tù. Người cảm thấy mình dù bị xiềng xích, dây trói mà vẫn như “khanh tướng vẻ ung dung”, cảnh ghẻ lở mà “Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm”,… Không một trở lực nào ngăn cản được trái tim và khối óc của Người. Hơn mười ba tháng bị giam giữ, đày đoạ chốn ngục tù, Người vẫn nghĩ suy và cống hiến cho cách mạng, vẫn ung dung tự tại, làm chủ bản thân mình.
3. Kết bài
– Một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn đã làm nên hình tượng một con người luôn tự thấy mình là “khách tự do” giữa chốn lao tù. Một con người vừa ung dung tự tại như một bậc hiền triết lại vừa chủ động, tự tin, phóng khoáng giữa thiên nhiên, trời đất với một tấm lòng, một trái tim rộng mở “Ôm cả non sông, mọi kiếp người” (Tố Hữu – Bác ơi!).
– Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân trước hình tượng Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù.
Từ những dàn ý chung và dàn ý chi tiết Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh, các em học sinh kết hợp tham khảo thêm phần Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Bác trong bài thơ Chiều tối để có thêm các câu từ triển khai các ý chính cho bài cảm nhận.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Văn mẫu Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh
Bài văn mẫu 1
Nhắc đến thơ Hồ Chí Minh có lẽ ta sẽ nghĩ ngay đến những vần thơ đầy trăng của Bác nhưng đọc “Chiều tối” mới thấy, Bác không chỉ viết hay về những buổi đêm ngập tràn ánh trăng mà, dưới tư cách là một nhà thơ, Bác còn mang một phong cách “thơ chiều” vô cùng riêng biệt. “Chiều tối” là bài thơ thứ 31 trong tập “Nhật kí trong tù”, bài thơ ghi lại cảm xúc thiên nhiên và cuộc sống lúc ngày tàn của Hồ Chí Minh trên đường chuyển lao vào khoảng cuối thu năm 1942, hình ảnh người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xiềng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác vừa cổ kính, vừa trữ tình. Qua bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp của Hồ Chí Minh với một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, con người cùng với ý chí kiên cường và tinh thần thép của người Cộng sản.
Mỗi bài thơ trong “Nhật kí trong tù” lại là một nét phác họa vẻ đẹp con người và tinh thần của Hồ Chí Minh: vẻ đẹp của trái tim, khối óc, vẻ đẹp của tinh thần, ý chí, nghị lực, của lòng khiêm tốn, đức hi sinh cao cả…. Được viết vào một hoàn cảnh đặc biệt: Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, bài thơ là sự tỏa sáng của tâm hồn, nghị lực và trí tuệ của Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh ngục tù.
“Chiều tối”, đúng như tiêu đề của nó, là một bức tranh thiên nhiên về cảnh chiều muộn ở nơi rừng núi được người tù Hồ Chí Minh ghi lại trên hành trình chuyển lao. Vì lẽ đó, vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ trước hết là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ với những rung cảm tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống của con người:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;”
Bác nâng niu, trân trọng biểu hiện của sự sống, tinh hoa của thiên nhiên, bởi vậy, ta luôn cảm nhận được những hình ảnh thiên nhiên lúc nào cũng chiếm vị trí nổi bật trong thơ Bác. Thiên nhiên mở ra trước mắt người đọc với những hình ảnh quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời cùng với chút ánh sáng cuối cùng còn sót lại của một ngày tàn chỉ có thể nhìn thấy nơi đỉnh trời đem lại cảm nhân về một không gian giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn. Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một mỗi buồn trong cảnh, và ngay trong cách nhìn cảnh ta cảm thấy tâm hồn Hồ Chí Minh đã thực sự hài hòa với thiên nhiên. Một cách rất tự nhiên, con mắt nhà thơ phải ngước lên cao để nhận ra một cánh chim mỏi mệt đi tìm chốn ngủ và một chòm mây cô đơn lặng lẽ trôi, nhìn cảnh như thế, dường như Bác đã xóa nhòa đi cái ranh giới giữa người tù và du khách tự do, để tâm hồn mình gắn liền với thiên nhiên, dễ dàng hòa nhập, quyến luyến. Có ai ngờ, ngay cả trong hoàn cảnh bị áp giải mà thiên nhiên lại vẫn hiện lên trong thơ Bác một cách tuyệt đẹp như thế.
Không chỉ thiên nhiên mà cho dù là hoàn cảnh nào Bác cũng không quên nghĩ đến con người:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.”
Cô thiếu nữ mải miết xay ngô, ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng hòa với khung cảnh lao động bình dị ấy, như đang reo vui cùng với âm thanh than hồng cháy tí tách. Hai câu thơ sau còn thể hiện được cảm nhận tinh tế của Bác trước hành động của con người trong không gian chiều tối. Không giống như trong thơ cổ, con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật mà lại đem sức sống truyền vào thiên nhiên, khiến khung cảnh chiều tối vốn man mác buồn lại bỗng tràn ngập sinh khí, sự ấm cúng cùng với nhịp sống, lao động của con người. Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người là Người lại tìm thấy được niềm vui. Bài thơ không khép lại cảm giác về bóng đêm đang dần xuống mà lại chan hòa ánh sáng, ánh sáng tạo nên cuộc sống đời thường giản dị, thân thuộc. Ánh sáng và niềm vui của sự sống con người hiện lên ở trung tâm của bức tranh đã tỏa hơi ấm ra xung quanh, xua tan đi cái cô quạnh, cái mệt mỏi, cái lụn tắt của cảnh chiều tối nơi núi rừng, khiến người tù cũng thoát khỏi xiềng xích mà quyện mình với cuộc sống hạnh phúc của con người nơi xóm núi nhỏ.
Bên cạnh tình yêu, niềm say mê đối với thiên nhiên, con người, ở bài thơ, ta còn thấy nổi bật lên ý chí kiên cường, tinh thần sắt đá của Hồ Chí Minh.Ta bắt gặp một thoáng buồn bã, cô đơn, ảm đạm “rất người” của Bác khi nhìn vào hình ảnh “quyện điểu” và “cô vân” , thế nhưng, trước ngọn lửa hồng, Bác quên đi việc mình vẫn đang phải bước đi trên con đường đầy ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trang thơ xua tan cái lạnh lẽo của lòng người và cảnh vật. Với lộ trình “năm mươi ba cây số một ngày”, nơi dừng chân có thể là một nhà lao mới hay một nhà kho ẩm ướt, nhưng thật kì diệu là trong hoàn cảnh như vậy, Người vẫn làm thơ, vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng lên với một cánh chim, một chòm mây, một làn hương rừng, một cảnh “làng xóm ven sông đông đúc thế”…Thử hỏi, nếu không có một tinh thần thép, một bản lĩnh thép, thơ của người làm sao có thể “bay cánh hạc ung dung” như vậy. Đó thực sự là một cuộc vượt ngục tinh thần của Bác, Người đã hoàn toàn chủ động trước mọi hoàn cảnh, đó chính là vẻ đẹp của ý chí, nghị lực, là tinh thần thép của người Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đan xen giữa những câu thơ như một mạch cảm xúc ngầm chính là khát vọng thầm kín và đầy tính nhân văn của Bác. Người tù Cách mạng dù kiên cường, dũng cảm đến đâu cũng luôn mơ ước, khát khao về một tổ ấm, quanh quần bên bếp lửa gia đìn. Hình ảnh cánh chim về rừng như đang tìm về tổ ấm của mình, cô thôn nữ xay ngô bên lò than rực hồng, tất cả làm hiện lên khung cảnh bình dị mà ấm cúng nơi quê hường, nơi mái nhà sum vầy, đoàn tụ. Nghĩ về những hình ảnh đời thường, yên bình ấy, ta có thể thấy được chất “người” vô cùng nhân bản trong Bác.
Trong thơ của Hồ Chí Minh, từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật đều vận động một cách rất tự nhiên, nhất quán, hướng về sự sống, về ánh sáng và tương lai. Ta thấy được một tâm hồn lạc quan, niềm tin mạnh mẽ vào Cách mạng, vào một tương lai tươi sáng, “Chiều tối” cũng không nằm ngoài quy luật đó:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng.”
Câu thơ kết thức bằng ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Có thể nói , chữ “hồng” ở cuối bài thơ đã tạo ra một luồng sáng chói rọi ngược trở lại làm sáng rực bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã, nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời. Những hình ảnh đối lập giữa niềm vui và nỗi cô đơn, buồn bã, giữa chiều tối và bình minh, mặt trời hồng đã thể hiện một phong cách thơ Hồ Chí Minh đầy tinh tế và nhạy cảm, một sứ kết hợp rất tự nhiên giữa màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại.
Chiều tối giống như bao bài thơ khác, thật nhỏ nhắn trong bố cục nhưng từng câu từng chữ đều như một nét phác họa bức chân dung con người, tinh thần Hồ Chí Minh: một tâm hồn nghệ sĩ dạt dào tình yêu với thiên nhiên, con người; một ý chí sắt đá vượt lên mọi hoàn cảnh, một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Bức chân dung ấy là sự hòa hợp giữa chất thép và chất tình, thi sĩ và chiến sĩ, như trong bài “Đọc thơ Bác”, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã viết: “Vần thơ của Bác, vần thơ thép/ Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.
Tham khảo thêm:
- Cảm nhận bài thơ Chiều tối
- Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong bài thơ Chiều tối
Cùng với dàn ý chi tiết, và các nội dung tham khảo là các bài viết cùng chủ đề cảm nhận, phân tích nhân vật, hình ảnh trong bài Chiều tối, các em học sinh có thể tham khảo thêm bài văn mẫu 2 về Nêu Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh dưới đây.
Bài văn mẫu 2
Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.
Cảnh hoàng hôn
Trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của Bác.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân. Tứ thơ cổ điển mà vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ không đồng nhất. Thiên nhiên mệt mỏi còn có chốn nghỉ, cô đơn mà được tự do, còn người tù không biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa, đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.
Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do. Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.
Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.
Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Không miêu tả đêm tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lò than. Lấy ánh sáng để làm nổi bóng tối, nghệ thuật là ở đó.
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui… đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.
Cảm nhận vẻ đẹp hiện đại và cổ điển trong bài thơ chiều tối, giữa thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian khổ.
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Chiều tối
—–
Với đề bài Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh bao gồm đầy đủ, các em học sinh cần tìm hiểu kĩ càng để từ đó có thể xây dựng cho mình một bài văn cảm nhận chân thực và nhiều ý nghĩa.
Đề bài Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh được Mầm Non Ánh Dương tổng hợp bao gồm cả dàn ý và cả những bài văn mẫu về hình tượng nhân vật trữ tình trong bài Chiều tối
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục