Đề bài: Bình giảng bài thơ Tảo giải (Hồ Chí Minh)
This post: Bình giảng bài thơ Tảo giải (Hồ Chí Minh)
Bài làm
Trong bài thơ “Khai quyển”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây?
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”.
Tuy Bác “không ham” làm thơ nhưng những vần thơ được Bác sáng tác trong chốn ngục tù với mục đích “ngâm ngợi cho khuây” đã trở thành những vần thơ “thép”, gây ấn tượng với bạn đọc bao thế hệ. Nhắc đến tập thơ “Nhật kí tronng tù”, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ “Tảo giải”. Tác phẩm này không chỉ miêu tả cảnh chuyển lao đơn thuần mà nó còn khắc họa tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.
Bài thơ mở ra một không gian buổi đêm với bóng tối bao trùm:
“Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san”.
(Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn)
Trời còn chưa sáng nhưng người tù đã bị áp giải di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác của tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Tiếng gà gáy một lần đã giúp chúng ta xác định được thời gian Người bị chuyển lao vào khoảng một giờ sáng, lúc đó mới chỉ quá nửa đêm. Thời khắc con người chìm sâu trong giấc ngủ thì Bác phải chịu cảnh khổ cực, gió rét. Giữa không gian tối tăm như vậy, tiếng gà gáy vang lên như một sự thân thuộc. Chắc hẳn người chiến sĩ cộng sản ấy đang nhớ về quê hương, nhớ về nhân dân tha thiết. Tiếng gà vang lên một lần rồi cũng bị sự tĩnh mịch của màn đêm nhấn chìm. Đặt mình trong hoàn cảnh ấy có ai lại không cảm thấy đơn lẻ? Nhưng với tâm hồn luôn hướng đến thiên nhiên, Bác Hồ đã tìm được niềm vui khi có chòm sao và ánh trăng bầu bạn. Con đường chuyển lao như trở nên gần hơn, không gian cũng được mở rộng lên đỉnh núi và có chút ánh sáng của trăng, sao mang lại. Câu thơ “Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san” tuy chưa được dịch sát nghĩa nhưng cũng khiến chúng ta phần nào thấy được sự hòa hợp, nâng đỡ cho nhau của trăng và sao. Dường như chúng muốn vượt khỏi bóng đêm u tối cũng giống như người tù nhân muốn vượt thoát khỏi cảnh tù đày để đến với tự do.
Nổi bật ở hai câu thơ tiếp theo là hình ảnh con người hiện lên thật hiên ngang và ung dung, đầy khí phách:
“Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn”.
(Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn).
Đáng lẽ người tù phải cảm thấy mệt mỏi khi bị giải đi từ rất sớm và phải đối mặt với sự khắc nghiệt của hoàn cảnh nhưng đối với Bác Hồ thì khác. Người đi xa không trốn tránh gió rét mà lại đối mặt, “nghênh diện” với nó. Người đọc có thể cảm nhận được thời tiết khắc nghiệt được thể hiện qua từ “trận trận hàn” để hình dung được cái lạnh của đêm thu. Nhưng người chiến sĩ kiên cường ấy không hề nao núng trước hoàn cảnh. “Nghênh diện” thể hiện một tư thế oai hùng của gười quân tử, luôn hiên ngang bền chí đối diện và vượt qua khó khăn. Ta có thể thấy được sự chủ động và tâm thế làm chủ hoàn cảnh của Bác. Dù trong gian khổ hay hiểm nguy thì Bác vẫn không hề run sợ. Hình ảnh người “chinh nhân” hiện lên thật bất khuất. Sự kết hợp giữa điệp từ “chinh” và ba tiếng “trận trận hàn” đã tạo nên âm hưởng trầm hùng cho bài thơ. Bản dịch thơ chưa lột tả được tư thế chủ động của “chinh nhân” và làm giảm bớt đi sự lạnh giá của trận gió. Tuy vậy, Bác vẫn hiện lên với ý chí quyết tâm chiến thắng mọi thử thách trên con đường giải phóng đất nước, mang lại cuộc sống no ấm cho nhân dân.
Sang khổ thơ thứ II, cảnh vật đã có sự vận động:
“Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
(Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không)
“Đông phương” đã được bao trùm bởi một màu hồng tươi mới, sau đêm tối sẽ là bình minh rực rỡ. Người tù thật tinh tế khi cảm nhận được sự chuyển mình của vạn vật. Dư âm của bóng tối không còn nữa, sự lạnh lẽo của gió thu được thay thế bằng hơi ấm của ánh bình minh. Đây cũng là ẩn dụ cho ánh sáng của cách mạng, của lí tưởng cộng sản. Từ “hồng” mang giá trị biểu đạt lớn. Nó biểu hiện niềm lạc quan, hi vọng của Bác vào sự chiến thắng của cuộc cách mạng dân tộc. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp từ “hồng” trong bài thơ “Mộ” được coi là nhãn tự của bài thơ, làm cho khung cảnh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người tràn đầy sức sống:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
Đồng thời màu hồng cũng gợi sự ấm áp lan tỏa khắp không gian:
“Noãn khí bao la toàn vũ trụ”
(Hơi ấm bao la trùm vũ trụ)
Sự lạnh lẽo của màn đêm, sự mỏi mệt của người tù bị áp giải như đã tan biến hết khi gặp ánh sáng. Nó cũng có sức mạnh giúp con người phấn chấn , khí thế hơn. Bác đã không bận tâm với trói buộc của hiện tại mà hòa mình vào thiên nhiên, vũ trụ để tận hưởng vẻ đẹp tươi mới đó. Trên con đường chuyển lao mấy khi có giây phút thảnh thơi như vậy? Hơi ấm đó không chỉ khiến thiên nhiên như được hồi sinh sau đêm tối mà còn khiến con người cũng có thêm sức sống, thêm sự lạc quan vào tương lai.
Chính điều ấy đã tạo nên cảm hứng trong tâm hồn Bác:
“Hành nhân thi hứng hốt gia nồng”.
(Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng)
Không gian tươi mới đã khiến cảm hứng trong Bác càng dâng cao. Hình tượng người chiến sĩ đã hòa nhập với con người thi sĩ tạo nên một tâm hồn lãng mạn. Từ “hành nhân” gợi sự thư thái trong tâm trạng của người chiến sĩ. Là một người yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên nên Hồ Chí Minh không thể bỏ qua sự biến chuyển của thiên nhiên dù là nhỏ nhất. Hơi ấm bao trùm toàn vũ trụ, ánh bình minh xua tan đi bóng đêm khiến nguồn thi hứng dào dạt trong Bác bật lên thành những tiếng thơ trữ tình mà đậm chất “thép”. Đây cũng là đặc điểm độc đáo riêng tạo nên phong cách thơ Hồ Chí Minh. Con người chiến sĩ và thi sĩ trong Bác đã chiến thắng hoàn cảnh để tạo nên những vần thơ tuyệt đẹp. Ta cũng đã từng thấy tinh thần lạc quan ấy của Người thể hiện qua bài thơ “Trên đường”:
“Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu”.
Có thể nói, với bài thơ “Tảo giải” bạn đọc vừa cảm nhận được vẻ đẹp cổ điển cũng như vẻ đẹp hiện đại của tác phẩm. Ngoài ra, ta còn thấy ngời sáng một tinh thần lạc quan, phong thái ung dung và tâm thế làm chủ hoàn cảnh của Bác. Bác đã dùng sự hiên ngang, oai hùng cùng ý chí kiên cường không bỏ cuộc để đối mặt với mọi gian nan, khắc nghiệt.
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Bình giảng bài thơ Tảo giải (Hồ Chí Minh) bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Phân tích bài thơ Tảo giải và cùng với phần Phân tích Tràng giang để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục