Đề bài: Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
This post: Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Dàn ý, Bài văn mẫu phân tích chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
I. Dàn ý Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” với chất thơ độc đáo
2. Thân bài
a. Chất thơ trong hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
– Tây Bắc hiện lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù.
– Chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tô Hoài miêu tả khung cảnh mùa xuân nơi rẻo cao Tây Bắc.
– Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hòa, đẹp như bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
b. Chất thơ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của con người
– Xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông không, công việc cõng nước, quay sợi…
– Ngày Tết: Không giống như người miền xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong.
+ Không khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng Tây Bắc khi “trai gái tìm nhau để tỏ tình”, chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu…
+ Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo – cầu nói truyền tải ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ cất lên tiếng lòng sâu thẳm, vượt qua dòng chảy thời gian, trở thành dòng chảy tâm hồn của biết bao đôi trai gái miền sơn cước.
c. Chất thơ trong con người – Mị
– Mị là cô gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và rơi vào cảnh tăm tối. Những tưởng Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mòn mỏi lầm lũi hết cuộc đời song ẩn sau tâm hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự do và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
– Vẻ ngoài của Mị đều toát lên vẻ âm thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực bên trong đó lại tiềm tàng 1 sức sống vô cùng mãnh liệt.
– Âm thanh tiếng sáo quen thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm tâm hồn Mị, làm rạo rực tâm hồn người con gái trẻ đẹp
=> Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn cản sự lụi tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan tất cả.
d. Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật
– Tô Hoài sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rỡ màu sắc vừa rất đỗi nên thơ.
– Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa trừu tượng vô hình.
– Âm điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm xúc êm đềm chảy trôi trong tâm trạng
– Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng sự mượt mà của văn phong điêu luyện.
3. Kết bài
– Đánh giá lại giá trị tác phẩm với nền văn học
II. Bài văn mẫu Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài là cây bút nổi tiếng ở thể loại truyện ngắn của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Nhắc đến truyện ngắn của ông không thể không nhắc đến tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Trong thiên truyện ngày, người đọc không chỉ ấn tượng bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn dễ dàng rung động trước chất thơ thấm đượm qua từng câu chữ.
Chất thơ trong tác phẩm văn học chính là vẻ đẹp lãng mạn. Nó tương phản với đời sống hiện thực nhưng thoát lên từ đời sống hiện thực. Hiện thực là những cái vốn có, chân thật thì chất thơ là ước mơ, lý tưởng nâng đỡ con người. Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, chất thơ bàng bạc bao phủ khắp mọi ngóc ngách, lan tỏa những giá trị vô cùng đẹp đẽ.
Chất thơ trước hết hiện lên qua hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với núi non, nương rẫy, sương mù… đặc trưng, không trộn lẫn với bất kỳ địa danh nào. Khung cảnh nên thơ nên họa được Tô Hoài miêu tả một cách đầy cá tính và sáng tạo. Tây Bắc hiện lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù. Ban ngày, dù nắng lên cao cũng không thể xua tan làn sương giăng trắng. Đêm xuống, ánh trăng hòa quyện càng khiến không gian trở nên huyền ảo như chốn vô thực.
Đặc biệt, chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tô Hoài lia bút miêu tả khung cảnh mùa xuân nơi rẻo cao Tây Bắc. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Cái hồn cốt của thiên nhiên Tây Bắc đã được lột tả qua những câu văn mang đầy “ý thơ”. Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hòa, đẹp như bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
Bên cạnh đó, chất thơ còn được bộc lộ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của con người nơi đây. Tô Hoài đã xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông không, công việc cõng nước, quay sợi… lặp đi lặp lại của họ hay những chiếc váy xòe sặc sỡ, vòng bạc lấp lánh – trang phục dân tộc của người phụ nữ H’mông vùng cao.
Mỗi phong tục, mỗi thói quen của con người bước vào trang văn của Tô Hoài đều rất đẹp, rất thơ. Song ấn tượng nhất có lẽ là lễ hội Tết. Không giống như người miền xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong. Dù cho Tết năm ấy đến “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không dập tắt được niềm vui đang len lỏi trong tâm hồn. Không khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng Tây Bắc khi “trai gái tìm nhau để tỏ tình”, chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu…
Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo – cầu nói truyền tải ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ cất lên tiếng lòng sâu thẳm: “Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Năm tháng trôi qua, tiếng sáo đã trở thành nét độc đáo không thể thiếu của mảnh đất này: “Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua dòng chảy thời gian, trở thành dòng chảy tâm hồn của biết bao đôi trai gái miền sơn cước.
Thiên nhiên trong “Vợ chồng A Phủ” mang đầy chất thơ, thiên nhiên lại là cái nôi nuôi dưỡng con người trưởng thành. Đi từ cội nguồn ấy, Tô Hoài bắt đầu hành trình khám phá chất thơ trong con người mà nét đặc sắc nhất được biểu hiện ở tâm hồn nhân vật chính – Mị.
Mị là cô gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và rơi vào cảnh tăm tối. Những tưởng ở nơi hang hùm nọc rắn với ựu lăm le hủy diệt bản tính tốt đẹp của cái ác, Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mòn mỏi lầm lũi hết cuộc đời “đến bao giờ chết thì thôi”. Song ẩn sau tâm hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự do và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
Ở nhà thống lí Pá Tra, từng hành động, cử chỉ, vẻ ngoài của Mị đều toát lên vẻ âm thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực bên trong đó lại tiềm tàng một sức sống vô cùng mãnh liệt. Đúng như nhà văn Tô Hoài từng nhận định: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Vẻ đẹp nội tâm đáng trân trọng đó chính là tính nhân văn sâu sắc, là chất thơ đặc biệt được tác giả sáng tạo. Khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân, lòng Mị “thiết tha bổi hổi”, âm thanh quen thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm tâm hồn Mị, làm rạo rực tâm hồn người con gái trẻ đẹp ngỡ như đã chết đi khi về làm dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo giao duyên gợi mở trong tâm trí Mị những hồi ức của ngày xưa cũ, tự do, vui vẻ, ngày mà “Mị thổi sáo giỏi” “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
Cũng tiếng sáo ấy đã thức tỉnh tâm hồn Mị, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước.” Lần đầu tiên sau bước ngoặt làm dâu nhà thống lí, Mị ý thức được bản thân “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Từ tình trạng bi kịch sống không bằng chết, sống mà như cái xác không hồn, Mị nay đã sống lại thực sự, sinh động trong tâm hồn và suy nghĩ. Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn cản sự lụi tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan tất cả. Để rồi từ đó, Tô Hoài đã khéo léo tái hiện nét “thơ” rất đẹp và giàu giá trị nhân văn trong quá trình xây dựng nhân vật. Ngay cả khi cuộc sống bế tắc trong bi kịch thì ông vẫn gửi gắm nỗi khát khao mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người.
Không những thế, chất thơ trong “Vợ chồng A Phủ” còn được thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo. Tô Hoài sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rỡ màu sắc vừa rất đỗi nên thơ. Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa trừu tượng vô hình. m điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm xúc êm đềm chảy trôi trong tâm trạng, tình cảm của người cầm bút. Trong thế giới đa cung bậc và nhiều màu sắc tình cảm, Tô Hoài còn có khả năng diễn đạt rung động, cảm xúc tinh tế một cách tài tình. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng sự mượt mà của văn phong điêu luyện. Hội họa, âm nhạc được khéo léo lồng ghép trong văn học tạo sự hài hòa cộng hưởng thơ ca và văn xuôi.
“Vợ chồng A Phủ” với chất thơ bàng bạc len lỏi thực sự là tác phẩm văn học chân chính với nhiều giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Với những giá trị ý nghĩa về nội dung và sáng tạo mang dấu ấn riêng về nghệ thuật, truyện ngắn xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu nổi bật cho hồn thơ Tô Hoài.
————————–HẾT—————————-
Trên đây Thuthuat.Mầm Non Ánh Dương đã cùng các em tìm hiểu về Chất thơ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Để hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật cùng nội dung đặc sắc của tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài, các em có thể tham khảo thêm bài: Phân tích Giá trị nhân văn trong Vợ chồng A Phủ, Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Phân tích hành động cởi trói của Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Diễn biến tâm trạng của Mị trong “đêm tình mùa xuân” trong Vợ chồng A Phủ.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)