Giáo dục

Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao

Đề bài: Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao

phan tich truyen ngan doi mat cua nam cao

This post: Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao

Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao
 

I. Dàn ý Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

2. Thân bài

a. Nhan đề, tình huống truyện:
– Nhan đề “Đôi mắt” Nam Cao đã khéo léo gợi ra tư tưởng cũng như chủ đề chính trong truyện ngắn: Cách nhìn nhận của sống của mỗi con người thông qua đôi mắt, nhưng đôi mắt ấy không chỉ làm nhiệm vụ nhìn nhận mà nó còn là ẩn dụ cho tư tưởng, lối sống.

– Tình huống truyện:
+ Kể về chuyến viếng thăm văn sĩ Hoàng của văn sĩ Độ, người mà trước đây mới “đá” anh, và cũng “đá” nhiều người khác không hiểu vì nguyên cớ ghen ghét gì.
+ Câu chuyện đã diễn ra trong một bối cảnh Độ liên tục nghe Hoàng phàn nàn chê trách chốn làng quê và những người nông dân ít chữ làm cách mạng bằng một thái độ cực kỳ khó chịu, mỉa mai.

b. Nhân vật Hoàng:
– Quen sống cuộc sống sung túc, phong lưu thích đọc tiểu thuyết dài tập, thích nuôi chó, cũng mang tiếng nhà văn nhưng hầu như bao giờ viết được một tác phẩm nào có giá trị.
– Thường bị người ta ghét, đến nỗi tưởng chừng như văn sĩ ở Hà Nội này đều ghét anh cả, bởi cái tật hay “đá” bạn, chỉ bởi người ta tài năng hơn anh, có tác phẩm được tuyên dương khen ngợi, hoặc đơn giản là kẻ đó chơi với người có hiềm khích với anh.
– Tổng khởi nghĩa nổ ra Hoàng cũng tự vơ cho mình cái danh “theo kháng chiến”, nhưng thực tế là đi chạy nạn về một làng ngụ cư, tiếp tục cuộc sống phong lưu, an nhàn của mình, bỏ ngoài những sự gợi ý về phục vụ cho cách mạng.

– Thái độ của Hoàng với người dân quê:
+ Anh chỉ thấy độc một màu đen, chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của họ, cho rằng họ là những kẻ nhiêu khê, cả đời chỉ biết tiết kiệm, không biết hưởng thụ, ít chữ, nhiều chuyện, can cái tội “đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện”.
+ Mỉa mai, khinh ghét những kẻ dân quê, bản thân Hoàng chưa từng một lần chịu hòa nhập, tìm hiểu chung sống với họ ngày nào, bản thân anh chỉ quanh quẩn với thú vui tao nhã bên vợ con, và tìm về mấy kẻ có học thức nhưng đã hết thời để đánh tổ tôm.
+ Gọi người nông dân làm cách mạng là “thằng chủ tịch”, “ông ủy ban”, “bố tự vệ”, “các ông thanh niên”, “các bà phụ nữ”,… một cách khinh miệt, coi thường.
+ Hoàng ích kỷ, thiếu nhân ái, chỉ biết “nhìn đời, nhìn người một phía”, anh không thích làm cách mạng với những người anh cho là dốt nát, bần tiện, lắm giáo điều, thích tuyên truyền, thế nên anh chấp nhận làm kẻ “phản động”. Trở thành kẻ lãnh đạm và thờ ơ với cách mạng.
– Sùng bái, tôn thờ quá mức một cá nhân, anh chỉ một lòng tôn sùng cụ Hồ, cho rằng nhờ chỉ duy nhất tài thao lược của cụ đã cứu rỗi cả đất nước mà hoàn toàn bỏ qua sự đồng lòng quân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc kháng chiến.

c. Nhân vật Độ:
– Hiền lành và có phong thái điềm tĩnh, trong cuộc nói chuyện với Hoàng, anh phần nhiều chỉ ngồi nghe, cười lấy lệ, anh ít khi phản bác, là người bao dung, hiểu biết và có đôi mắt đa chiều.
– Tuy lời thoại ít ỏi nhưng cũng thấy được tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải “Nghe các ông nói đến “sức mạnh quần chúng”… như họ vẫn thường thế nữa”.
= > Nếu ta chỉ mãi đứng ngoài trông vào, mà không chịu xông pha, đi sâu vào đời sống, cùng chiến đấu, cùng tìm hiểu những người nông dân chất phác thật thà thì sẽ chẳng bao giờ phát hiện được những cái tốt đẹp đang tiềm ẩn bên trong những con người thô sơ, ít chữ ấy.
– Bộc lộ niềm tin của người trí thức trong cách mạng, ánh nhìn tích cực của họ đối với quần chúng nhân dân, những người đa phần ít học, nhưng có sức mạnh quật khởi, lòng hăng hái, truyền thống đánh giặc giữ nước đã ăn sâu vào máu thịt, mà không một kẻ thù nào có thể chiến thắng.
=> Tuyên ngôn về “nguồn cảm hứng mới cho văn nghệ”, khuyến khích người làm nghệ thuật phải biết đi sâu, lội sâu vào đời sống nhân dân con người, vạch những cái xù xì, thô kệch để tìm những viên ngọc tiềm ẩn bên trong, ví như tấm lòng hoạt động, cống hiến hết mình cho cách mạng. Và tránh xa cái thói ích kỷ, phân biệt, miệt thị chỉ vì họ không giống mình, chỉ vì cho họ là những kẻ lỗ mãng, thất phu, không xứng được tìm hiểu tôn trọng.
 

3. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.

II. Bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao

Nam Cao là một trong những tác gia lớn của văn học hiện đại Việt Nam, có đóng góp to lớn vào kho tàng văn học dân tộc đặc biệt là trong mảng văn học hiện thực thế kỷ XX, phản ánh và phô bày nhiều mặt tối của con người và xã hội lúc bấy giờ. Nếu trước cách mạng tháng tám Nam Cao tập trung khai thác đề tài người nông dân và trí thức tiểu tư sản nghèo đói với số phận bất hạnh, bị chế độ tay sai thực dân nửa phong kiến chèn ép đến tận cùng của đớn đau, với giọng văn lạnh lùng, xót xa và bế tắc. Thì sau cách mạng, Nam Cao đã tự tìm cho mình một hướng đi mới ông bắt đầu quan tâm đến những vấn đề hiện thực khác trong xã hội, sự vận động biến đổi của con người trong thời kỳ đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, ra sức ủng hộ cách mạng bằng một giọng văn dịu dàng và nhân văn hơn, kém đi nhiều phần gay gắt. Trong số những tác phẩm sáng tác sau cách mạng tháng tám thì Đôi mắt là một trong những tác phẩm nổi tiếng và thành công nhất của Nam Cao, với triết lý về cách nhìn nhận cuộc đời thông qua việc xây dựng hai nhân vật đối lập Hoàng và Độ.

Với nhan đề “Đôi mắt” Nam Cao đã khéo léo gợi ra tư tưởng cũng như chủ đề chính trong truyện ngắn, ấy là cách nhìn nhận của sống của mỗi con người thông qua đôi mắt, nhưng đôi mắt ấy không chỉ làm nhiệm vụ nhìn nhận mà nó còn là ẩn dụ cho tư tưởng, lối sống, những suy nghĩ chủ quan của một con người trước sự thay đổi của cuộc sống, trước những con người khác nhau. Mà ở đó đôi mắt hay chủ thể có thể lựa chọn mở thật rộng đôi mắt, tâm hồn mình để bao quát vấn đề hay chỉ khư khư, bảo thủ dùng đôi mắt kén chọn, khắc nghiệt, hẹp hòi của mình để nhìn lấy một góc sự việc rồi phán quyết. Hoàng và Độ chính là 2 kiểu người có hai đôi mắt khác nhau như vậy.

Tình huống truyện cũng là một tình huống khá đơn giản, giọng văn của Nam Cao giờ đây đã mềm mại và gần gũi hơn, ông hóa thân thành văn sĩ Độ xưng “tôi” trong tác phẩm, thong thả kể về chuyến viếng thăm của mình tới nhà ông bạn văn sĩ Hoàng, người mà trước đây mới “đá” văn sĩ Độ, và cũng “đá” nhiều người khác không hiểu vì nguyên cớ ghen ghét gì. Thế nhưng nhưng văn sĩ Độ vốn là người mềm tính, hiền lành, nên cũng cố gắng từ ngoại ô vượt cả trăm cây số tìm về khu tản cư để chơi với Hoàng. Từ đó câu chuyện đã diễn ra trong một bối cảnh Độ liên tục nghe Hoàng phàn nàn chê trách chốn làng quê và những người nông dân ít chữ làm cách mạng bằng một thái độ cực kỳ khó chịu, mỉa mai. Bản thân văn sĩ Độ thực không đồng ý với cách nghĩ của Hoàng có ý muốn khuyên giải, thế nhưng dần dà anh nhận ra không thể thay đổi được sự cố chấp của con người, nên đành ậm ừ cho qua chuyện, đồng thời từ đây anh cũng suy nghĩ ra được nhiều điều.

Với nhân vật văn sĩ Hoàng, một con người quen sống cuộc sống sung túc, phong lưu thích đọc tiểu thuyết dài tập, thích nuôi chó, cũng mang tiếng nhà văn nhưng hầu như bao giờ viết được một tác phẩm nào có giá trị. Hoàng không sống bằng nghề văn mà trái lại anh sống bằng cái nghề mà như văn sĩ Độ nói ấy là “một tay chợ đen rất tài tình”. Có lẽ rằng cái danh văn sĩ chỉ đem lại cho Hoàng được ít tiếng tăm và thỏa mãn cái thú được xem là người có học rộng tài cao. Thế nhưng bản thân Hoàng lăn lộn trong giới văn chương lại thường bị người ta ghét, đến nỗi tưởng chừng như văn sĩ ở Hà Nội này đều ghét anh cả. Cũng chỉ bởi cái tật hay “đá” bạn, mà không cho người ta biết nguyên cớ, chỉ bởi người ta tài năng hơn anh, có tác phẩm được tuyên dương khen ngợi, hoặc đơn giản là kẻ đó chơi với người có hiềm khích với anh. Mà bản thân văn sĩ Độ vốn hiền lành không dưng cũng bị Hoàng “đá”. Khi những cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra, nhiều văn sĩ quyết tâm theo cách mạng, cống hiến cho cách mạng và được tuyên dương trên tuần báo giải phóng, duy chỉ mình Hoàng vì chỉ biết chạy nạn, không đóng góp được gì thế nên dĩ nhiên chẳng có sự khen ngợi nào. Và xuất phát từ lòng ghen tức, ấm ức Hoàng đã dùng ngòi bút của mình để làm ra một việc thật đáng khinh ghét, đê tiện anh chửi những đồng nghiệp theo kháng chiến của mình, chửi cả những người xưa nay chưa từng động chạm đến anh, “hằn học gi mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hết cả phần thiên hạ”. Đất nước dần đổi mới, thay da đổi thịt, nhưng Hoàng vẫn như cũ, không chịu thay đổi, vẫn ích kỷ và quen thói ăn trên ngồi trước cho mình là bậc phong lưu, cao cả. Tổng khởi nghĩa nổ ra Hoàng cũng tự vơ cho mình cái danh “theo kháng chiến”, nhưng thực tế là đi chạy nạn về một làng ngụ cư, tiếp tục cuộc sống phong lưu, an nhàn của mình, bỏ ngoài những sự gợi ý về phục vụ cho cách mạng. Tuy nhiên cuộc sống thôn dã, và những người nông dân làm cách mạng lại khiến Hoàng bực dọc, khó chịu, thế nên để xả nỗi bí bách trong người Hoàng đã xởi lởi mời văn sĩ Độ ghé chơi rồi mặc sức kể lể. Trong mắt Hoàng khi nhìn về nông thôn, anh chỉ thấy độc một màu đen, chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của họ, cho rằng họ là những kẻ nhiêu khê, cả đời chỉ biết tiết kiệm, không biết hưởng thụ, ít chữ, nhiều chuyện, can cái tội “đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện”. Đó là một loạt những từ ngữ mỉa mai, khinh ghét mà Hoàng đã dành tặng cho những kẻ dân quê, trong khi bản thân Hoàng chưa từng một lần chịu hòa nhập, tìm hiểu chung sống với họ ngày nào, bản thân anh chỉ quanh quẩn với thú vui tao nhã bên vợ con, và tìm về mấy kẻ có học thức nhưng đã hết thời để đánh tổ tôm. Cả cuộc kháng chiến quyết liệt, mạnh mẽ và vang dội cũng không thể quét sạch được tâm trí Hoàng để tặng cho anh một tầm nhìn mới. Đối với Hoàng những người nông dân làm cách mạng chẳng xứng đáng được anh tôn trọng nên anh cứ mặc sức gọi họ là “thằng chủ tịch”, “ông ủy ban”, “bố tự vệ”, “các ông thanh niên”, “các bà phụ nữ”,… một cách khinh miệt, coi thường. Nhưng chưa bao giờ Hoàng chịu suy nghĩ xem tại sao họ có thể được làm những chức vụ quan trọng ấy trong bộ máy dù họ ít chữ còn anh thì không. Hoàng ích kỷ, thiếu nhân ái, chỉ biết “nhìn đời, nhìn người một phía”, anh không thích làm cách mạng với những người anh cho là dốt nát, bần tiện, lắm giáo điều, thích tuyên truyền, thế nên anh chấp nhận làm kẻ “phản động”. Trở thành kẻ lãnh đạm và thờ ơ với cách mạng, không chịu tham gia ủng hộ bất ký một điều gì cho kháng chiến. Hoàng trở nên cô độc và càng ganh tỵ đỏ mắt khi nhìn thấy những kẻ anh khinh miệt được ủng hộ hoan nghênh, Hoàng không hiểu và mãi mãi không hiểu được lý do nào cho sự lạ ấy. Thêm vào đó bản thân Hoàng lại có sự sùng bái, tôn thờ quá mức một cá nhân giống như việc anh liên tục khen Tào Tháo hay, thì bây giờ anh lại chỉ một lòng tôn sùng cụ Hồ, cho rằng nhờ chỉ duy nhất tài thao lược của cụ đã cứu rỗi cả đất nước mà hoàn toàn bỏ qua sự đồng lòng quân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc kháng chiến. Trong khi đó thực tế rằng nếu quân dân ta không có sự đồng lòng, không đóng góp sức người, sức của thì có lẽ cuộc kháng chiến đã thất bại từ những ngày đầu, không phải vì Hồ Chủ tịch không giỏi mà bởi lẽ “một cây làm chẳng nên non”.

Còn đối với văn sĩ Độ, anh là một người hiền lành và có phong thái điềm tĩnh, trong cuộc nói chuyện với Hoàng, anh phần nhiều chỉ ngồi nghe, cười lấy lệ, anh ít khi phản bác. Mặc dù bản thân Độ là một tri thức nghèo, theo kháng chiến, cũng nằm trong số những kẻ mà trước đây Hoàng đã chửi rủa là bọn vô sản, khố rách áo ôm. Nếu ai đó có hỏi rằng liệu trong suốt buổi chơi ở nhà Hoàng, Độ có lúc nào thấy bực tức, khó chịu vì cái cách cư xử quá đáng và thiếu hiểu biết của Hoàng đối với những người làm cách mạng hay không. Thì xin được trả lời là có một chút, nhưng rồi sau đó Độ cũng thấu hiểu bản chất của Hoàng, rõ ràng thế giới quan khác nhau thì người ta lại càng không nên tranh luận với nhau, và càng không nên chắp nhặt mà làm gì. Độ là người bao dung, hiểu biết và có đôi mắt đa chiều như vậy đấy. Từ những lời thoại ít ỏi của anh ta cũng thấy được tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải “Nghe các ông nói đến “sức mạnh quần chúng”, tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm cách mạng. Cái thời Lê Lợi, Quang Trung, có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ còn trở lại. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngả ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh, mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con, nhà cửa, như họ vẫn thường thế nữa”. Một đoạn dài trong lời thoại của nhân vật Độ, cũng đủ để ta hiểu rằng nếu ta chỉ mãi đứng ngoài trông vào, mà không chịu xông pha, đi sâu vào đời sống, cùng chiến đấu, cùng tìm hiểu những người nông dân chất phác thật thà thì sẽ chẳng bao giờ phát hiện được những cái tốt đẹp đang tiềm ẩn bên trong những con người thô sơ, ít chữ ấy. Ở họ có vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, yêu cách mạng, sẵn sàng hy sinh xương máu khi Tổ quốc gọi tên, họ đoàn kết với nhau làm nên sức mạnh tập thể, là tầng lớp vô sản nòng cốt làm nên chiến thắng của dân tộc. Từ đó bộc lộ niềm tin của người trí thức trong cách mạng, ánh nhìn tích cực của họ đối với quần chúng nhân dân, những người đa phần ít học, nhưng có sức mạnh quật khởi, lòng hăng hái, truyền thống đánh giặc giữ nước đã ăn sâu vào máu thịt, mà không một kẻ thù nào có thể chiến thắng. Rõ ràng ở vị trí của những tri thức thế hệ mới thì các văn sĩ phải nhận ra được rằng, nước ta vốn khởi đầu với nền văn minh lúa nước từ bao đời, giai cấp nông dân là đông đảo và mạnh mẽ nhất đã gây dựng đất nước từ thời các vua Hùng đến nay. Thì đến nay cách mạng nước ta dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh cũng là một cuộc cách mạng vô sản, vậy thử hỏi xem còn giai cấp nào xứng đáng và phù hợp hơn giai cấp nông dân trong cuộc chiến này nữa? Ai là người có ý chí hơn họ trong việc bảo vệ quê hương, giành lại tấc đất của dân tộc? Như vậy trước thời đại mới, người trí thức, người nghệ sĩ phải tự lập ra cho mình một tuyên ngôn về “nguồn cảm hứng mới cho văn nghệ”, khuyến khích người làm nghệ thuật phải biết đi sâu, lội sâu vào đời sống nhân dân con người, vạch những cái xù xì, thô kệch để tìm những viên ngọc tiềm ẩn bên trong, ví như tấm lòng hoạt động, cống hiến hết mình cho cách mạng. Và tránh xa cái thói ích kỷ, phân biệt, miệt thị chỉ vì họ không giống mình, chỉ vì cho họ là những kẻ lỗ mãng, thất phu, không xứng được tìm hiểu tôn trọng.

Truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao không chỉ là tuyên ngôn của tác về cách làm nghệ thuật trong thời đại mới, mà còn đưa ra cho mỗi chúng ta một triết lý có giá trị muôn đời ấy là cách nhìn nhận vấn đề bằng đôi mắt, trái tim và nhận thức. Rõ ràng ta không nên và không thể hiểu thấu bất kỳ sự việc, con người nào trên cuộc đời bằng một cái nhìn phiến diện, chủ quan, vị kỷ và thiếu nhân ái. Mà thay vào đó chúng ta phải cất công tìm hiểu đi sâu vào từng vấn đề, khai thác từng chi tiết rồi mới có thể cho kết luận. Có thể nói rằng bằng một câu chuyện ngắn, cốt truyện đơn giản nhưng Nam Cao đã “thức tỉnh” được rất nhiều con người, chứ không riêng gì giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ và cả mai sau nữa.

Sau khi tìm hiểu chung về truyện ngắn Đôi mắt với cả 2 tuyến nhân vật mang tính đối lập là văn sĩ Hoàng và văn sĩ Hộ, các em có thể tìm hiểu chi tiết về Hoàng – nhân vật chính của truyện qua: Phân tích nhân vật Hoàng trong truyện Đôi mắt của Nam Cao. Bên cạnh đó các em cũng có thể tham khảo những truyện ngắn đặc sắc khác của Nam Cao như: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc, Phân tích truyện ngắn Chí Phèo.

Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button