Giáo dục

16 Bài phân tích Hạnh phúc của một tang gia hay nhất

Phân tích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng 16 bài văn mẫu hay được chính thầy cô trường Mầm Non Ánh Dương chọn lọc từ các bài văn đạt điểm cao lớp 11 sẽ giúp các em có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia lớp 11 để thấy được bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” thành thị những năm trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và nghệ thuật trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.

This post: 16 Bài phân tích Hạnh phúc của một tang gia hay nhất

Đề bài: Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng
Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng

Dưới đây là dàn ý phân tích Hạnh phúc của một tang gia và các bài văn mẫu hay nhất giúp các em hiểu rõ hơn về ý nghĩa của tác phẩm.

Dàn ý Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

1. Mở bài

– Giới thiệu những nét tiêu biểu về Vũ Trọng Phụng: có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ngòi bút sắc sảo của ông thành công nhất ở tiểu thuyết và truyện ngắn.

– Giới thiệu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Là toàn bộ chương XV của tiểu thuyết Số đỏ – cuốn tiểu thuyết thành công của Vũ Trọng Phụng.

2. Thân bài

a. Giá trị nội dung

Ý nghĩa nhan đề

– “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc

– “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”

⇒ Nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc

Những niềm vui khác nhau khi cụ cố Tổ mất

+ Niềm vui chung cho cả gia đình:

– Gia đình tràn ngập niềm vui bởi cụ cố tổ chết cũng là lúc cái chúc thư đi vào thời kì thực hành chứ không còn lí thuyết viễn vông nữa

⇒ Một gia đình bất hiếu

+ Niềm vui của những thành viên trong gia đình:

– Cố Hồng (con trai cả): vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo để người ta nghĩ “úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”

⇒ Con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình

– Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa

⇒ Người cháu bất hiếu, đầy dã tâm.

– Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.

⇒ Người cháu thực dụng, thiếu tình người.

– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết nhưng đau khổ như kim châm vào lòng khi không thấy Xuân tóc đỏ đâu với khuôn mặt “buồn lãng mạn”.

⇒ Người con gái hư hỏng, lẳng lơ.

– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến

⇒ Con người vô tâm, kém hiểu biết.

– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.

⇒ Chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản, không có nhân cách, vô liêm sĩ.

– Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.

+ Niềm vui của những người ngoài gia đình:

– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “giữa lúc không có ai đáng bị phạt… đương buồn rầu… thì sung sướng cực điểm”.

– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương

– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang.

⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước

Cảnh đám ma gương mẫu

– Tả bao quát đám ma khi đang đi trên đường:

+ Chậm chạp, nhốn nháo như hội rước.

+ Kết hợp ta, Tàu Tây để khoe giàu một cách hợm hĩnh.

– Tả cận cảnh: Người đi dự: giả dối, bàn đủ thứ chuyện.

– Cảnh hạ huyệt:

– Mở đầu: cậu tú Tân thì dàn dựng việc chụp hình một cách giả dối và vô văn hóa.

– Tiếp theo: Ông Phán thì diễn việc làm ăn với Xuân: “Xuân Tóc Đỏ… gấp tư”

⇒ Đó là một màn hài kịch thể hiện sự lố lăng, đồi bại, bất hiếu, bất nghĩa của xã hội thượng lưu trước 1945.

b. Giá trị nghệ thuật

– Xây dựng tình huống độc đáo

– Phát hiện những chi tiết đối lập gây gắt cùng tồn tại trong một con người, sự vật, sự việc.

– Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa,… được sử dụng một cách linh hoạt.

– Miêu tả biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết, nói trúng nét riêng của từng nhân vật.

– Bút pháp trào phúng

3. Kết bài

– Điểm lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

– Ý nghĩa thực tiễn của đoạn trích: Đoạn trích đem đến một bài học đạo đức cho con người trong mọi thời đại

Sơ đồ tư duy phân tích Hạnh phúc của một tang gia

Sơ đồ tư duy phân tích Hạnh phúc của một tang gia
Sơ đồ tư duy phân tích Hạnh phúc của một tang gia

16 Bài văn mẫu Phân tích Hạnh phúc của một tang gia

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 1

Nhắc đến thể loại tiểu thuyết của nền văn học Việt Nam hiện đại ta không quên nhắc đến tác phẩm lừng danh “Số đỏ” làm nên tuổi của nhà Vũ Trọng Phụng. Cuốn tiểu thuyết đã phát huy cao độ tài năng đả kích, châm biếm sắc sảo của tác giả trước những trò lố lăng, bịp bợm của xã hội thực dân phong kiến ở nửa đầu thế kỉ XX. Đặc sắc nhất, ấn tượng nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã tái hiện một đám tang bất thường của những con người với thái độ và tình cảm bất thường trước linh hồn người đã khuất.

Điều bất thường đó được thể hiện ngay ở nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Theo như lệ thường gia đình có người mất, vĩnh biệt cõi tạm trở về vĩnh viễn với cõi âm phải đau buồn, thương xót, bi ai nhưng ở đây lại là hạnh phúc. Một hạnh phúc khó diễn tả cho hết, hạnh phúc ấy chảy trong từng mạch máu của mỗi con cháu trong dòng họ từ người lớn đến trẻ nhỏ. Điều ấy đi ngược với giá trị đạo đức, với tình thương của con người.

Điều bất thường của đám tang được làm nên bởi thái độ của những người thân yêu trong gia đình. “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, họ coi đây là một cơ hội hiếm có, một thời cơ đã đến để mỗi người có dịp thể hiện ước muốn của bản thân.

Cụ cố Hồng đứa con lớn của cụ cố Tổ trong lúc tang gia bối rối, ông vẫn ung dung nằm mơ màng nghĩ đến lúc mình được “mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ úi kìa con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Thật là đứa con đứt ruột đẻ ra, chăm nom nuôi dưỡng nay lại mang tội bất hiếu với bố. Nhưng điều ấy chẳng có gì lạ thường khi mà tất cả mọi người đều như vậy nên nó trở thành bình thường.

Văn Minh (cháu nội) đã từng du học bên Tây về nước chẳng có lấy một mảnh bằng cấp chỉ chăm chăm vào việc chia tài sản, mong cho tờ di chúc được đi vào thực thi là khi cụ cố Tổ chết nên ông ta vui lắm, mừng lắm. Việc làm ngay đó của ông là mời luật sư đến để chứng kiến cái chết của ông nội cũng là mong di chúc được thực hiện. Trong lúc tang gia vẻ mặt đăm đăm chiêu chiêu, vò đầu rứt tóc của ông thật hợp tình hợp lí nhưng thực chất là đang băn khoăn suy nghĩ không biết nên đối xử như thế nào cho phải vì một cái ơn to, hai cái tội nhỏ của Xuân. Nguyễn Tuân đã nhìn thấu cái tâm can, bụng dạ của con người mang danh có học thức của một nhà cải cách xã hội ấy vậy mà lại vô tâm vô tình chỉ quan tâm đến tiền bạc và danh vọng hão.

Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp để trổ tài nghệ thuật thể hiện mình như một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp bởi có cơ hội sử dụng “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Riêng cháu rể quý Phán mọc sừng thì khấp khởi hạnh phúc vì được bố vợ nói nhỏ vào tai sẽ đền bù cho thêm số tiền vài nghìn đồng bởi chính ông cũng không thể ngờ rằng đôi sừng vô hình trên đầu lại có giá trị đến thế.

Đám dâu con như bà Văn Minh, cô Tuyết thì “bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp”. Họ hồ hộp, mong chờ đến giây phút trình diễn thời trang trong đám tang. “Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mẫn trắng viền đen”, cô Tuyết đã trưng diện sẵn bộ quần áo Ngây thơ là “cái áo dài voan mỏng, bên trong có cooc sê trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội cái mũ mấn xinh xinh” với nét mặt buồn lãng mạn mang vẻ mặt của người trong gia đình có tang.

Không khí tang ma thì như ngày hội lớn mọi người mọi nhà sum họp. Đây là chi tiết trào phúng gây cười ra nước mắt trong suốt hoạt cảnh tang gia. Đám tang mà người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám…Tang gia đấy nhưng ai cũng vui vẻ hạnh phúc cả. Một đám tang rất to có đầy đủ kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa… có đầy đủ loại người trong xã hội từ cảnh sát cho đến sư sãi, từ thằng hạ lưu giả danh nhà cải cách xã hội cho đến nhà thiết kế thời trang, già trẻ gái trai đủ cả. Họ đến đám tang để phô diễn chiến công và sự giàu sang của mình. Đó là Xuân tóc đỏ_người yêu cô Tuyết, con ma cà bông đội lốt nhà cải cách xuất hiện đem theo hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư sãi. Điều này khiến cho cụ cố Hồng rất vui mừng hạnh phúc và cũng biết ơn vô cùng bởi đã góp phần làm cho đám tang càng thêm sang trọng để thể hiện sự giàu có của gia đình. Sự xuất hiện của Xuân càng tô đậm vẻ hợm hĩnh, phô trương, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên cao khiến cho người đọc phải bàng hoàng, bỡ ngỡ. Những người bạn của cụ cố đến đưa đám không phải để chia buồn mà cốt để khoe huân chương trên ngực, đám trai thanh gái lịch ở nơi tang tóc mà vẫn có thể làm những trò lố lăng vừa đi đưa đám vừa “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…” Đến khi hạ huyệt chôn cất thân xác của người chết để họ về hơi an nghỉ cuối cũng là lúc bi ai, đau xót nhất ấy vậy mà con người ta diễn nó thật lố bịch. Nhà văn đã lia ống kính quay cận cảnh hạ huyệt với từng nét mặt của những con người. Cậu Tú Tân thì bẻ từng người thế nọ, thế kia để tạo dáng chụp ảnh kỉ niệm, những người bạn thì nhảy lên các mộ khác để chụp cho ảnh khỏi giống nhau, cụ cố Hồng vừa ho khạc vừa mếu máo, giả tạo giỏi nhất là Phán khóc hứt hứt oặt người đi mãi không thôi nhưng vẫn không quên dúi vào tay Xuân tờ năm đồng gấp làm tư để giữ chữ tín cho cuộc giao thương. Chỉ một vài chi tiết nhỏ nhưng có giá trị nghệ thuật cao nó càng làm rõ thêm mục đích đến đám tang của những người thân.Vũ Trọng phụng đã vạch trần bộ mặt giả dối của những con người không có tình yêu thương đồng loại thản nhiên, vui vẻ trước cái chết. Theo như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: “Đây là cái bi của người chết, cái hài của xã hội, cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”.

Bằng ngòi bút trào phúng tài năng nhà văn Vũ Trọng Phụng đã bóc trần một xã hội nhố nhăng với những thói hư tật xấu làm mất đi sự văn minh, tiến bộ và giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Bút pháp phóng đại mà không như phóng đại, nghệ thuật khắc họa nhân vật với các chi tiết điển hình làm nổi bật lên chân dung đặc điểm của mỗi người, lối viết văn rất sáng tạo và độc đáo làm nên giá trị của đoạn trích để lại nhiều ấn tượng cho độc giả về xã hội thiếu tình người lúc bấy giờ.

“Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy không giết quá một con muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.” Đúng là như vậy con người ấy có những trang viết thật tài tình đã tái hiện lại bức tranh xã hội đang buổi giao thời Đông Tây lố bịch, cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch, một bức tranh biếm họa vô cùng đã cho người đọc thấy một đám ma to làm cho “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu” tất cả những điều khác thường theo luân lí đạo đức mà lại bình thường trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ được sắc nét lại qua ngòi bút của một giọng văn mỉa mai, đả kích sâu sắc làm nên giá trị của tác phẩm.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 2

Đất nước hôm nay tươi đẹp, phát triển thay đổi từng giờ, song ta vẫn không thể quên một thời kì đen tối nhất trong lịch sử nước nhà. Thời kì dân tộc ta chìm trong bóng tối chế độ thực dân nửa phong kiến, vô số kẻ khoác lên những “tấm áo” giả dối, lố lăng, đồi bại cùng nhau tạo nên một bức tranh ghép của xã hội thối nát. Với ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị chạy theo lối sống nhố nhăng, bịp bợm đương thời qua “Số đỏ”. Có ý kiến cho rằng “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là một “tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến. Quả vậy, xã hội được phản ánh và quy mô và thi pháp trong “Số đỏ” tuy chưa thể ngang tầm với “Tấn trò đời” (Balzac) nhưng mức độ phản ánh hiện thực và ảnh hưỏng sâu rộng của tác phẩm với cộng đồng cũng không hề thua kém.

Honoré de Balzac – được xưng tụng như một “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” (Engles) đã để lại một công trình ván học đồ sộ: bộ “Tấn trò đời” với 97 tiểu thuyết được sáng tác từ 1829 đến 1850. Tuy chưa được hoàn thành, “Tấn trò đời” vẫn là một bức tranh hiện thực rộng lớn, mô tả những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư sản Pháp nửa đầu thế kỉ 19. Balzac gọi những cuốn tiểu thuyết của ông là những “bi hài kịch”. Và đây cũng chính là điểm chung khiến ta liên hệ “Số đỏ” của văn xuôi Việt Nam với “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.

“Số đỏ” (1936) là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng và vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Dùng tiếng cười làm vũ khí, “Số đỏ” đã vạch trần thực chất thối nát của các phong trào “Âu hóa”, “thể thao”… được bọn thống trị khuyến khích, phát triển rầm rộ cuối những năm 30. Với một loạt những chân dung biếm họa phong phú, “Số đỏ” giúp ta hình dung cái xã hội thành thị nhố nhăng, đồi bại thời trước. “Hạnh phúc của một tang gia”- một chương tiêu biểu trong “Số đỏ” thông qua cái chết và đám tang của cụ cố tổ, tác giả đã dựng lên một màn hài kịch, nêu bật nhiều mâu thuẫn hài hước đủ các cung bậc. Xuyên suốt chương truyện là một bút pháp trào phúng độc đáo trong việc thể hiện niềm vui sướng hả hê của những thành viên trong đại gia đình cụ cố Hồng trước cái chết cụ cố tổ và những kẻ đưa đám ma như trẩy hội.

Trong “Lão Hạc”, Nam Cao viết: “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương”. Nếu Nam Cao đến với số phận con người bằng một tấm lòng nhân đạo, nâng đỡ con người khiến chính người đọc cũng ngậm ngùi bên từng trang viết, thì Vũ Trọng Phụng lột trần cái “hạnh phúc” đáng khinh bỉ, lũ con cháu bất hiếu, lố lăng đã khô héo cả những tình cảm máu mủ thiêng liêng nhất.

“Hạnh phúc của một tang gia”, nhan đề này thực sự mới lạ, giật gân khiến ngươi đọc phải chú ý. Tuy nhiên, đây không phải là một sự giật gân dễ dãi, vô lý mà đă phản ánh đúng cái sự thật mỉa mai: con cháu của đại gia đình này thật sự sung sướng, thậm chí “hạnh phúc” khi cụ tổ chết một cái chếtdđược mong đợi từ lâu. Chứng phấn khởi, những niềm phấn khởi muôn màu, muôn vẻ. Ta không khỏi cười thầm khỉ “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm…”, nhưng đó nào có là niềm vui sướng thầm kín, ” tưng bừng, vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thê xe đám ma…”. Đấy chỉ mới là niềm vui chung mà thôi. Vũ Trọng Phụng đã cố tìm mà hiểu cáỉ đại gia đình này qua từng con người. Ta thương hại cho thói hiếu danh, thích được chú ý của cụ cố Hồng, “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xổ gai, lụ khụ chống gậy…”, thương thay cho một “ước mơ” nhỏ nhoi là tự biến mình thành trò xiếc để “thiên hạ chỉ trỏ khen…”.Rồi ông phán mọc sừng cảm thấy hạnh phúc vì được thêm một sô tiền, ông Văn Minh “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành”, cậu Tú Tân ” sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nên một màn kịch từ những “mơ ước” thầm kín đến niềm vui sướng dâng trào, toàn cảnh “tang gia” tuyệt nhiên không gợn một chút thương tiếc nào. Phũ phàng hơn “bầy con cháu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ, ông Văn Minh “thầm biết ơn Xuân Tóc Đỏ vì tình cờ gây ra cái chết kia của cụ già”.

Balzac từng miêu tả cái chết trong nghèo nàn về cả vật chất lẫn tinh thần cùa lão Gôriô một cách mỉa mai. Song, dù sao chăng nữa “những nghĩa vụ cuối ấy cùng được thực hiện tận tình bởi hai người thanh niên xa lạ. Có thể nói, ma của cụ cố tổ trong “Số đỏ” hoàn toàn tương phản với những gam màu buồn trong “Nghĩa vụ cuối cùng”(Lão Gôriô). Nghệ thuật châm biếm sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng những chi tiết chọn lọc nhằm khắc họa thật sắc nét bình ánh cái đám tang lộ rõ lối đua đòi, “văn minh rởm”. Ta không thể nhận ra liệu đây là đám ma hay đám rước bởi cái hổ lốn, tạp nhạp “Ta, Tàu, Tây…”, “lợn quay”, “vòng hoa”, “câu đối”. Bọn con cháu thì không còn lời gì để tả, Tuyết “mặc bộ… Ngây thơ… hở cả nách, nửa vú…” với khuôn mặt mang “một nét buồn lãng mạn rất đúng mốt”. Cậu Tú Tân thì hào hứng “chỉ huy chụp ảnh… như ở hội chợ” những gì gọi là to tát, long trọng, danh giá của cái đám ma ấy chi là sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lý háo danh đến kì quặc qua những hình thức nghi lễ đưa tang hổ lốn hết sức buồn cười. Tác giả đã hạ một câu văn mỉa mai cực độ “thật là một đám ma¬ có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.

Không chỉ sử dụng các yếu tố mâu thuẫn từ những cái bình thường, thậm chí tầm thường để trào phúng: Vũ Trọng Phụng còn xây dựng nên vô số những nhân vật phụ làm nền cho bức tranh biếm họa ít nhiều có nguồn gốc từ chính hiện thực, những nguyên hình trong xã hội dâm loạn, giả dối đương thời. Từ những ông bạn thân của cụ cố Hồng… đeo đầy những huân chương… đến “giai thanh gái lịch” đất Hà thành đang Âu hóa “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau…” đã biểu lộ mọi góc cảnh của cái tính vô văn hóa, vô đạo đức của bọn cặn bã mang những chiếc mặt nạ bịp bợm. Những hành động của ông Phán mọc sừng đối với Xuân Tóc Đỏ ở cuối đoạn trích là những chi tiết trào phúng đặc biệt chua chát góp phần không nhỏ tô dậm sự lố lăng, vô đạo đức của xã hội thượng lưu thời đó. “Ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi” nhưng vẫn không quên bí mật “dúi vào tay Xuân một tờ giấy bạc gấp tư”. Những nhà trí thức chân chính của Việt Nam, không ít người đã từng du học Pháp, nhưng họ đã đau vì nỗi đau nô lệ, họ từng đau vì lòng tự ái dân tộc bị tổn thương dưới gót giày xâm lược của quân viễn chinh Pháp và họ bỏ hết những tiện nghi và lợi ích cá nhân để vào chiến khu “theo chân Bác”. Ta hãy nghe một đoạn nhật kí của Giáo sư Hồ Đắc Di (người thầy của Bác sĩ nổi tiếng — Tôn Thất Tùng) “Ai đã từng sống kiếp đọa đày trong đêm trường nô lệ; hay chí ít đã trải qua những nhọc nhằn, day dứt lương tâm, nhân phẩm, ắt sẽ lao theo cơn lốc cách mạng, một khi ánh sáng của nó soi rọi tâm hồn”. Trí thức chân chính Việt Nam cùng nhân daan lao động làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám, quét sạch những trò ma mãnh, lọc lừa của thứ văn minh giả dối, bịp bợm và tình trạng số đỏ của xã hội Việt Nam không còn chỗ đứng trong “cơn lốc cách mạng”.

Từ cách đặt nhan đề chương truyện, đặt tên nhân vật, đồ vật, cách so sánh, cách dùng hình ảnh, đến cách đặt câu, cách tạo giọng điệu., đều thể hiện đậm nét chất trào phúng, châm biếm, mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Sau cái hài buồn cười ấy là cả một bi kịch đáng “buồn”, đó chính là bi kịch của cả xã hội khi mà đạo đức con người xuống cấp, nhân cách băng hoại: sau tiếng cười ta thấm thía xót xa cho xã hội Việt Nam thời ấy. “Số đỏ” thực xứng đáng là một “Tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát. Đọc Số đỏ nói chung, và chỉ cần một chương XV “Hạnh phúc của một tang gia”, ta cũng đã bật cười và rồi xót xa muốn khóc cho những giá trị truyền thống cao đẹp nhất của dân tộc ta đã bị chà đạp đến tan nát làm não lòng tâm hồn Việt. Vũ Trọng Phụng đã đưa chúng ta vào chứng kiến một thế giới “phi nhân loại” mà thế lực đồng tiền và thực dân đã trình làng bằng khẩu hiệu ngụy trang “văn minh- khai hóa”.

Trước đó không lâu, Trần Tế Xương ũng từng khóc – cười cho xã hội truyền thống Việt Nam điên đảo qua bài thơ “Mồng hai tết viếng cô Kí”. Sau đó, Vũ Trọng Phụng ghi lại như một trang phóng sự, chính xác và sinh động đến không ngờ bằng nòi bút nhưu chảy máu từ một trái tim thắm nồng tình yêu dân tộc. Thông điệp từ trang “Số đỏ” ngày trước nhắc nhở mỗi chúng ta hôm nay một ý thức trách nhiệm với đát nước. Để tình trạng “Số đỏ” sẽ mãi chỉ là “phút lỡ nhịp ngang cung” trong toàn bộ trang sử hào hùng của một dân tộc tự cường và giàu lòng tự trọng.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 3

Vũ Trọng Phụng – cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng như tiểu thuyết, phóng sự, … ở mảng nào ông cũng thể hiện tài năng quan sát bậc thầy của mình về hiện thực xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng. Trong hệ thống tác phẩm đó, nổi bật nhất phải kể đến Số đỏ – thiên tiểu thuyết có thể làm vinh dự cho bất cứ nền văn học nào. Nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm đã đạt đến đỉnh cao, đặc biệt là trong trích đoạn “Hạnh phúc một tang gia”.

“Hạnh phúc một tang gia” được trích từ chương XV khi Xuân Tóc Đỏ làm cụ cố tổ chết. Một đáng tang long trọng, đầy bối rối, “hạnh phúc” của đám con cháu trước cái chết của người thân trong gia đình. Với khung cảnh đám ma, Vũ Trọng Phụng đã lột trần bản chất xấu xa, “chó đểu” của lũ con cháu cũng như xã hội đương thời.

Ngay từ nhan đề của văn bản đã cho thấy sự mâu thuẫn, trào phúng. Hạnh phúc vốn là trạng thái tâm lí khi con người được thỏa mãn một mong muốn, một nhu cầu nào đó của bản thân. Còn tang gia là khi gia đình đó có người mất, không khí bao trùm sẽ là sự um ám, buồn thương, tang tóc. Khi kết hợp hai yếu tố này lại khiến cho người đọc bất ngờ, ngỡ ngàng về một hạnh phúc quái dị của gia đình cụ cố Hồng.

Cái chết của cụ cố tổ không những không làm họ đau buồn, mà con đem đến niềm vui vô hạnh, niềm hạnh phúc to lớn cho đám con cháu. Bởi khi cụ cố tổ chết, tất cả đám con cháu sẽ được chia gia tài: “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm”“thành ra tang gia ai cũng vui vẻ cả” “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”. Một không khí tưng bừng, rộn rã, tươi vui bao trùm lên đám tang, mà người ta cứ ngỡ như nhà có việc hỉ.

Đấy là niềm vui chung, còn mỗi thành viên trong gia đình lại có niềm vui khác riêng cho mình. Cụ cố Hồng có được cơ hội ngàn năm để diễn trò già nua trước đám đông, để cho thiên hạ chỉ trỏ khen mình là già, để thể hiện gia đình mình có phúc lớn. Đồng thời đây cũng là cơ hội để tỏ lòng hiếu thảo với cha mình, thông qua việc tổ chức đám ma thật to, thật hoành tráng. Còn cụ bà vui mừng vì tổ chức được cho cha một đám ma danh giá nhờ có sự xuất hiện của sư cụ Tăng Phú. Niềm vui của bà Văn Minh thật đơn giản đó là được mặc bộ đồ xô gai tân thời, để giúp bà lăng xê những mẫu thời trang tang lễ của tiệm may Âu hóa. Bà Văn Minh đã gián tiếp thực hiện mục đích biến đám tang thành sàn biểu diễn thời trang. Còn ông Phán mọc sừng không ngờ đôi sừng trên đầu mình lại có giá trị to lớn đến thế, ngoài tiền được chia gia tài còn được chia thêm tiền đền bù danh dự, vậy là kế hoạch đào mỏ của ông đã thành công. Nhưng còn những trẻ tuổi như Tuyết hay cậu Tú Tân lại có niềm vui rất đơn giản: Tuyết có dịp được mặc bộ trang phục tang lễ ngây thơ để chứng minh với thiên hạ mình là người không hư hỏng; còn cậu Tú Tân vui mừng vì có dịp được dùng cái máy ảnh mới mua, được thỏa mãn sở thích chụp ảnh, thể hiện tài nghệ chụp ảnh.

Không chỉ người trong nhà vui, mà những người ngoài cũng tìm được niềm hạnh phúc trong đám tang cụ cố tổ. Đối với ông TYPN đám tang là dịp để những mẫu thiết kế của ông ra mắt công chúng và ông trông chờ sự phản hồi của dư luận ra sao. Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa sung sướng cực điểm vì đang lúc không có việc để làm thì được thuê trông giữ đám ma. Với Xuân Tóc Đỏ đám tang này giúp y củng cố địa vị của mình ở xã hội thượng lưu và được ông Phán mọc sừng thanh toán nốt năm đồng còn lại. Còn hàng phố, những người xung quanh thì vui sướng khi được xem đám tang to tát, linh đình; được xem những màn trình diễn thời trang miễn phí. Tất cả mọi người đều có niềm hạnh phúc riêng. Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút châm biếm, đả kích sâu cay của mình để vạch trần bộ mặt thật của xã hội thượng lưu đương thời: vô đạo, không có lương tâm.

Cảnh đám tang lại là sự pha tạp Tây, Tàu lẫn lộn: tiếng kèn xuân nữ não nùng, tiếng lốc bốc xoảng và bú dích, tiếng Ta, kèn Tây lần lượt thi nhau rộ lên. Đám tang to tát, đi đến đâu làm huyên nào đến đó nhưng không có chút tình người. Người đưa tiễn thì tranh thủ khoe khuân chương, đám trai gái thì trêu ghẹo, đùa cợt với nhau. Điệp khúc “đám cứ đi” điệp đi điệp lại cho thấy đám đông vô tình, vô nghĩa. Tác giả đã một lần nữa vạch trần bộ mặt xã hội thượng lưu thành thị.

Cảnh hạ huyệt càng trở nên nực cười hơn nữa. Những người thân thì tạo dáng chụp ảnh, cậu Tú Tân ép mọi người tạo đủ tư thế sao cho thật đau khổ để cậu chụp được những bức ảnh để đời. Ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc đỏ lại là những diễn viên đại tài, trong khi đóng kịch khóc thương cụ cố tỏ đã kịp tiến hành một cuộc trao đổi, mua bán với Xuân Tóc Đỏ: “ông Phán cứ khóc oặt người đi, mãi không thôi” “chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư” … Cảnh hạ huyệt đã một lần nữa vạch trần bộ mặt giả dối, đểu cáng của lũ con cháu.

Tác phẩm tạo được tình huống trào phúng đặc sắc, từ cái chết của cụ cố tổ và đám ma to tát lũ con cháu tổ chức đã vạch trần bộ mặt xấu xa của đám con cháu cũng như những kẻ bên ngoài gia đình. Ngôn ngữ, giọng điệu trào phúng đặc sắc: “Thật là một đám ma to tát”“chết một cách bình tĩnh” “hai cái tội nhỏ một cái ơn to”,… Cách so sánh hài hước: Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… Sử dụng những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng để từ đó làm bật lên tiếng cười. Ngoài ra các thủ pháp cường điệu, nói ngược, những lời bình luận hài hước được vận dụng linh hoạt làm bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Qua đoạn trích Hạnh phúc một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần, phê phán bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị đương thời thông qua hình ảnh của một gia đình có tang. Réo lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận người Việt Nam cả hôm qua và ngày nay. Đồng thời qua trích đoạn cũng thấy được tài năng trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng qua tình huống, ngôn ngữ và giọng điệu châm biếu, trào phúng đặc sắc.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 4

Nếu nói về những tác phẩm thuộc văn học trào phúng Việt Nam thì không thể không nhắc đến cái tên “Số đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Có lẽ chính vì một lối châm biếm sắc sảo rõ nét cũng như đã làm cho tính hấp dẫn của tác phẩm được hiện rõ và để lại những tiếng cười châm biếm sâu cay. Và đoạn trích ấn tượng “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những thành công trong toàn bộ tiểu thuyết “Số đỏ” của nhà văn được mệnh danh là “Ông vua phóng sự Bắc Kỳ” này.

Có thể thấy được điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ngay đó chính là tiêu đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Ta như nhận thấy được rằng đây chính là mâu thuẫn và nực cười của câu chuyện. Khi trong nhà có tang, tang luôn luôn đi liền với sự mất mát và đau thương nhưng ở trong đoạn trích này ta lại không hề thấy được sự đau thương đâu mà nó lại được thể hiện bằng những sự hạnh phúc, như khát khao mong chờ bấy lâu nay mới được toại nguyện.

Khi nhà có tang thì ông Phán mọc sừng lúc này lại rất thấy hạnh phúc vì được thêm số tiền đó chính là vài nghìn đồng bù khoản bị vợ cắm sừng. Và có thể thấy được chính người con trai cả – Cụ cố Hồng cũng như nhắm mắt mơ màng đến cái lúc cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy. để cho thiên hạ thấy được sự đau khổ cũng như là chỉ trỏ để khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế. Còn đối với ông Văn Minh thì ông lại như rất thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ dường như không còn là lí thuyết viển vông nữa. Còn đối với cậu Tú Tân sướng điên người lên, vì chỉ nó lúc này thì ông mới có dịp thi thố tài chụp ảnh. Ngoài ra thì bà Văn Minh nôn nao chờ lăng xê những kiểu đồ tang tân thời của hiệu may Âu hóa của mình và giờ đây cuối cùng được như ý. Còn cô Tuyết lại lại như thêm vui mừng khi lại có dịp khoe với thiên hạ cái cơ thể còn gợi cảm qua lần áo tang mỏng manh kia như để nói rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh”. Và dường như tất cả hạnh phúc cứ thế mà tuôn ra, trào ra khó dấu diếm.

Chính những sự hấp dẫn của đoạn trích nhưng lại còn ở những mâu thuẫn trào phúng cơ bản. Trước hết ta như thấy được nó nằm ngay trong nhan đề của chương đó là “Hạnh phúc của một tang gia”. Tất cả mọi thành viên trong gia đình đều như đã thấy đây chính là một dịp may ,mà lại còn là dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện được ý đồ riêng tư của mình. Có lẽ chính vì vậy mà cho nên cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Chính cái bọn con cháu vô tâm ai ai dường như cũng đã sung sướng thỏa thích. Người ta như thật tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, và cả cảnh gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân.

Tuyệt nhiên, trong đám tang đó không có một ai tỏ ra đau buồn thương tiếc người quá cố. Ông Vưn Minh như lại còn thầm biết ơn khi Xuân tóc đỏ đã vô tình làm cho cái chết của cụ cố Hồng đến nhanh hơn, tất cả nhà ai ai cũng háo hức để đón chờ ngày đưa tang, ngày mà cụ cố Hồng chết.

Tiếp theo đó chính là cảnh đám tang. Cảnh đám tang như cũng đã đập vào mắt người ta trước tiên là sự đua đòi lối sống văn minh rởm quả thật lố lăng. Và cùng với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua một số chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi lối cái lối sống văn minh rởm ấy. Đó dường như chính là một đám ma to tát, long trọng, và kệch cỡm như còn theo cả lối Ta, Tàu, Tây. Đám tang như có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bu đích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Và dường như lại có cậu Tú Tân chỉ huy, hay là những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Có lẽ chính cái đám ma ấy làm huyên náo cả thành phố bằng kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Chính bằng màn trình diễn, và cả sự quảng cáo đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen mà nhân đó, Tuyết bèn mặc đồ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình như chưa bị đánh mất cả chữ trinh. Và cả trong cái đám ma ấy còn làm huyên náo bằng việc lố bịch đó chính là có thể bán cho những ai có tang đang đau đớn vì kẻ chết như cũng đã được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.

Quả thực đây “Thật là một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cúi đầu!…”

Thông qua đó ta còn như đã thấy còn một thành phần vô cùng quan trọng nữa trong đám tang, góp phần làm nên sự to tát của nó. Và không ai cả ngoài đó là những người đưa tang. Đầu tiên là những ông bạn được coi là thân của cụ cố Hồng hình như đưa đám tang lại như chỉ để khoe huân chương, huy chương, khoe những “kiểu râu hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn” mà thôi chứ có thương xót gì người đã mất. Rồi những giới thượng lưu đều như cảm động khi trông thấy làn da thập thò trên cánh tay và ngực Tuyết,…Cái đám tang như là để họ có thể là trò hề, như là một dịp để họ những con người kia thỏa sức thể hiện.

Chính bằng một ngòi bút trào phúng bậc thầy, tác giả tài năng Vũ Trọng Phụng đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo đồng tiền, như vạch mặt cả những hạng người như đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó qua chương “Hạnh phúc của một tang gia” đặc sắc này.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 5

“Số đỏ” là tiểu thuyết đặc sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, cũng là tác phẩm có giá trị bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong tác phẩm này, thông qua việc xây dựng tình huống “cười ra nước mắt” tác giả đã vạch trần bản chất thối nát, lố lăng của tầng lớp địa chủ, đại tư sản, qua đó là tiếng khóc đầy xót xa cho sự suy đồi của những giá trị đạo đức tốt đẹp. Chương XV của tác phẩm – Hạnh phúc của một tang gia là đoạn trích tiêu biểu cho cảm hứng trào phúng, phê phán này. Nhận xét về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia cũng như tiểu thuyết “Số đỏ”, có ý kiến cho rằng “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng như một tấn trò đời của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát”.

“Tấn trò đời” là tác phẩm tập hợp 97 tiểu thuyết đặc sắc của “bậc thầy chủ nghĩa hiện thực” Balzac. Qua Tấn trò đời là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã hội Pháp trong những năm nửa đầu thế kỉ XIX. “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là bức tranh xã hội thực dân nửa phong kiến với sự suy đồi của giai cấp địa chủ đại tư sản. Chính sự tương đồng trong nội dung phản ánh đã gợi liên tưởng “Số đỏ” của Việt Nam chính là “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.

“Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, đoạn trích nói về đám tang của cụ cố Tổ. Thông qua những tình huống hài hước, tác giả Vũ Trọng Phụng đã vạch trần cái lố lăng của các nhân vật trong câu chuyện. Bút pháp trào phúng quen thuộc đã thể hiện ấn tượng về niềm vui sướng, hạnh phúc của những thành viên trong gia đình cố Hồng trước sự ra đi của cụ cố Tổ.

Ngay tên của đoạn trích đã thể hiện được cái bi hài kịch trong gia đình đại tư sản danh giá “hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thăng hoa, vui sướng khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cuộc sống, còn “tang gia” lại chỉ gia đình có tang, gắn với sự mất mát về tình cảm. Theo lẽ thường, một gia đình có tang thì không khí bao trùm sẽ là nỗi đau thương, sự mất mát về người và tình cảm. Nhưng đám tang của cụ cố Tổ lại thật lạ lùng, bởi đám tang tuy có sự mất mát về người nhưng lại có thể mang đến hạnh phúc, sự thỏa mãn cho tất cả các thành viên trong gia đình và ngoài gia đình.

Cố Hồng – con trai của cụ cố Tổ cảm thấy vui sướng vì được mặc áo xô gai, chống gậy “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, chống gậy…”. Trong suốt đám tang, cố Hồng luôn tỏ ra già yếu, lẩn thẩn cùng câu nói cửa miệng quen thuộc “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Niềm vui sướng của nhân vật này khi cha của mình mất chính là muốn nghe lời trầm trồ, tán thưởng của mọi người trong khu phố, muốn phô ra cái phúc của một gia đình đại tư sản, rằng con trai già bố mới mất. Vợ chồng Văn Minh là con cả của Cố Hồng, theo lẽ thường cần đứng ra lo chu toàn ma chay cho ông nhưng vấn đề mà vợ chồng Văn Minh quan tâm lại là việc thừa kế “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành” và việc nên hay không nên cưới chạy tang cho cô Tuyết.

Phán Mọc Sừng cảm thấy lâng lâng hạnh phúc vì được thêm một số tiền kha khá, cậu Tú Tân cảm thấy hạnh phúc vì được chụp ảnh “sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Cô Tuyết diện lên mình bộ trang phục ngây thơ không phù hợp bối cảnh. Mọi cái lố lăng, rởm đời được phô bày một cách rõ nét mang đến tấn bi hài cười ra nước mắt.

Qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”, tác giả Vũ Trọng Phụng đã lên án gay gắt xã hội thực dân nửa phong kiến với phong trào Âu Hóa đầy lố lăng, nơi những giá trị đạo đức bị coi nhẹ, chà đạp để trở thành thứ bi hài trong cuộc sống. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã mỉa mai, chế giễu đầy sâu cay với đám ma khác đời, có một không hai này “thật là một đám ma có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.

Số đỏ là lời lên án sâu sắc cái đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, cũng là tiếng khóc xót thương cho sự ra đi của những giá trị đạo đức. “Hạnh phúc của một tang gia” là tấn bi hài cười ra nước mắt mà Vũ Trọng Phụng đã tái dựng đầy thành công.

Phân tích bài Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng
Phân tích bài Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 6

Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học VN. Có lẽ đặc sắc nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của 1 tang gia” được trích từ tác phẩm “Số đỏ”. Tác phẩm như một lời phê phán cái sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Đó là những đứa con, cháu bất hiếu đã đi trái lại với truyền thống đạo đức của dân tộc ta.

“Hạnh phúc của 1 tang gia” tác giả xây dựng nhan đề đầy kịch tính, đơn thuần lúc bình thường nếu như gia đình có người mất thì tất cả đều phải đau buồn và tiếc thương chứ, vậy mà ở đây chứa đựng 1 nghịch lí: mọi người luôn bận rộn lo toan để tổ chức 1 đám tang chu đáo linh đình như 1 đám rước với lại còn vui mừng nữa chứ, những người vui mừng đó không phải ai khác đó chính là những đứa con cháu của cụ cố tổ. Ở đây Vũ Trọng Phụng thực sự gây chú ý cho người đọc và làm bật lên tiếng cười phê phán rất lớn. Đã từ lâu mọi người trong cái gia đình này rất mong cụ cố tổ chết để được hưởng hạnh phúc. Mọi người đều có một niềm hạnh phúc riêng từ cái chết ấy.

Cụ cố Hồng là con trai của cụ tổ thế nhưng chỉ vì lợi riêng mà hạnh phúc trước sự ra đi của cha mình. Cụ ung dung ngồi hút thuốc phiện và cứ gắt 1 câu vô nghĩa “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” đến 1872 lần và càng thể hiện rõ hơn khi cụ cứ mơ màng nghĩ đến lúc “cụ mặc đồ xô gai chống gậy, ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!’ Thật là một đứa con bất hiếu và háo danh đến mức mù quáng. Không chỉ có cụ Hồng mà đứa cháu đích tôn của ông lại mời luật sư đến để chứng kiến cái chết của ông nội mình để cho “cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không phải là lý thuyết viển vông nữa” và không biết phải xử trí như thế nào với Xuân tóc đỏ về những vụ thua kiện mà Xuân gây ra đó không phải ai khác mà chính là ông Văn Minh một người cháu hám của, hám lợi. Còn vợ của ông – bà Văn Minh thì đây là một cơ hội để mặc bộ đồ xô gai tân thời của tiệm may Âu hóa và càng mừng hơn vì mốt model của đám ma được tung ra và là lúc bà thu lợi nhuận để kiếm lời. Còn cô Tuyết là 1 cô con gái hư hỏng, lố lăng cũng có dịp ăn mặc thời trang “mặc bộ y phục ngây thơ” rất lố lăng trông như hở cả nách và nửa vú và “trên mặt hơi có một vẻ buồn lãng mạng rất đúng mốt 1 nhà có đám”.

Cậu Tú Tân thì có dịp khoe khoang tài chụp ảnh và có cơ hội giải trí, trong những đứa con cháu ấy dường như ai cũng có 1 niềm vui riêng nhưng có lẽ người vui sướng nhất là ông Phán mọc sừng một kẻ trục lợi từ cái chết của cụ tổ và là 1 kẻ hám tiền, vô liêm sĩ, ông rất vui mừng vì được chia món tiền lớn từ “đôi sừng” vô hình trên đầu của mình có ai mà lại vui khi mình bị vợ cắm sừng mà lại được thêm tiền vì “đôi sừng” ấy chứ! Đúng là 1 kẻ vô liêm sỉ. Vì món tiền được chia mà ông bàn việc làm ăn với Xuân tóc đỏ để thu thêm lợi cho mình. Bằng cách nói dí dỏm và nghệ thuật đối lập tác giả đã chỉ ra họ là những đứa con cháu hám danh, bất hiếu, vô đạo đức đã chà đạp lên đạo lí làm người cũng như truyền thống văn hóa của dân tộc. Những người trong gia đình đã thế thì những người ngoài gia đình càng vui hơn khi họ được những phần lợi nhuận từ cái chết ấy như hai viên cảnh sát Min-đơ & Min-toa đang lúc thất nghiệp lại có việc làm và dĩ nhiên là có tiền, các bạn của cụ cố Hồng thì có dịp để khoe khoang nào là những huy chương: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… đến những bộ râu trên mép trên cằm, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc dài hoặc ngắn, còn các trai thanh gái lịch thì có dịp hẹn hò nhau, tán tỉnh nhau, chim nhau, cười tình với nhau đủ mọi thứ chuyện. Thật là một cảnh dở khóc dở cười của những kẻ trai thanh, gái lịch. Đám ma ở đây chúng ta thấy không có sự thương tiếc, đau xót mà ngược lại còn làm nơi để hẹn hò tán tỉnh.

Ở đây Vũ Trọng Phụng đã dựng lên 1 bức tranh trào phúng, phê phán thực trạng và mang đậm tính hài hước. Ở trên tác giả đã dựng 1 bức tranh chân thực về sự giả dối vui sướng của những người trong và ngoài gia đình thì ở đây tác giả lại miêu tả cảnh 1 đám tang thật gương mẫu với cảnh “1 đám ma theo cả lối ta, tàu, tây, lợn quay đi lọng” 1 đám ma thật to tát như đám rước “có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa”. Bằng giọng văn hóm hỉnh, châm biếm tác giả viết “Thật là 1 đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!” một đám ma chậm chạp như đám rước với câu “đám cứ đi” tác giả đã miêu tả bao quát cảnh đưa đám nhưng ở đây làm cho chúng ta liên tưởng dường như tác giả không phải là người thuật lại sự việc nữa mà là người chứng kiến và tham gia vào đám tang đó bằng việc miêu tả cận cảnh: người ta thấy những câu như con bé nhà ai kháu thế? – con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! – Ừ, ừ cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! và với điệp từ “Đám cứ đi” làm rõ sự chậm chạp của đám ma hơn nữa!.

Cứ như thế đến cảnh hạ huyệt mở đầu là cậu Tú Tân với “chiếc áo thụng trắng” trách móc từng người và dàn dựng những cảnh để khoe tài năng chụp ảnh của mình 1 cách giả dối, cùng với đó là những người bạn của cậu “rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau “thật là vô văn hóa, bát nháo, làm mất đi vẻ trang nghiêm của đám. Tiếp đến “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông Phán mọc sừng” với thủ pháp nghệ thuật của mình tác giả đã miêu tả sự dí dỏm của cảnh hạ huyệt bằng những tiếng khóc “Hứt…hứt…..hứt…” của ông Phán mọc sừng bên cạnh đó ông còn bàn việc làm ăn với Xuân tóc đỏ, ông dúi vào tay nó 1 cái giấy bạc 5 đồng gấp tư. Qua cảnh hạ huyệt và cảnh đưa đám tác giả nêu rõ hơn về màn kịch thể hiện sự lố lăng, đồi bại bất hiếu, bất nghĩa của xã hội lúc bấy giờ.

Từ một tình huống truyện cơ bản Vũ Trọng Phụng đã xây dựng những mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau nhằm để thể hiện rõ bản chất vô đạo đức với sự lố lăng của tầng lớp xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ. Cùng với những thủ pháp nghệ thuật cường điệu, nói ngược, mỉa mai càng làm nổi bật sự vô đạo đức đồi bại của xã hội trước 1945.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 7

Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!

Nghệ thuật trào phúng, suy cho cùng, là nghệ thuật phát hiện và diễn tả được những cái bất thường, kỳ dị chứa đựng trong nó mâu thuẫn trào phúng, rồi cường điệu, phóng to những cái bất thường, kỳ dị ấy lên để gây cười. Viết về cái “tang gia” “hạnh phúc” trong tiểu thuyết của mình, nhà văn của “rừng cười nhiệt đới” đã tỏ ra rất thoải mái, ung dung trong khi làm chủ thứ nghệ thuật này. Thậm chí, ông còn nắm được nhiều bí quyết tạo tiếng cười. Chỉ cần đọc kĩ một chương, chương XV chẳng hạn, cũng thấy rõ điều này.

Nội dung chương truyện có thể tóm tắt như sau: Cụ Tổ họ Hồng đã ngoài tám mươi tuổi mà cứ “sống mãi” (!) Đám con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong này thành hiện thực khi Xuân Tóc Đỏ – trong một lần “nổi giận” vì tự ái, đã om sòm “tố cáo” trước mặt mọi người rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ Tổ (chồng cô Hoàng Hôn) là “một người chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó – thực ra, do ông Phán dây thép thuê Xuân làm với giá 10 đồng – đã trực tiếp gây ra cái “chết thật” của cụ cố Tổ và có cái đám tang kì lạ này.

Tên đầy đủ của chương truyện này có vẻ rườm rà và thiếu mạch lạc một cách đầy dụng ý: Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu. Thật là một cái tên xứng với những gì mà nhà văn miêu tả, trần thuật và muốn nói trong chương truyện. Nó chứa đựng cái bất thường mang mâu thuẫn trào phúng (“Hạnh phúc của một tang gia…”.), nó dự báo những bất đồng giữa “phái trẻ”, “phái già” cần phải hòa giải (Văn Minh nữa cũng nói vào…), và nó bao hàm cả cái “chuẩn mực” đáng hãnh diện và đáng cho những đám ma khác phải noi theo (Một đám ma gương mẫu).

Tuy nhiên, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang gia thôi cũng đã cô đặc trong đó những cái bất thường và những mâu thuẫn trào phúng của toàn bộ màn hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang diễn trong chương này.

Mất người thân là mất mát không gì bù đắp được, nỗi buồn của tang gia thường được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất – thành ngữ dân gian thường ví von “buồn như cha chết”, “buồn như nhà có đám”; còn chủ nhân những nhà có đám tang thường được xem là “khổ chủ” – cho nên, hai chữ tang gia thường gợi lên cả một cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh.

Nhưng cái tang gia này thì lại không thế: Cả tang gia ai cũng hạnh phúc, vui sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng toát ra từ không khí và bức tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể hài hước của tác giả, kiểu như “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” hay “tang gia ai cũng vui vẻ cả”, “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”,… được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.

Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia, khi thì lộ liễu, khi lại kín đáo, toát ra từ từng khuôn mặt khôi hài, tạo thành những bức biếm họa độc đáo. Ông Phán-mọc-sừng, ông cháu rể “quý hóa” của “người chết” thì sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch tận dụng sự hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ”, đã thành công mỹ mãn không ngờ. Nhờ có cái “chết thật” của ông nội vợ mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”.

Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết” thì sung sướng đến ngây ngất, vì nhờ cái “chết thật” của cha mình, nhờ có đám tang này mà cái danh giá sang trọng của ông sẽ được nâng lên nhiều bậc. Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”.

Văn Minh (chồng), ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết” thì chỉ nóng lòng “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mình mà “cái chúc thư” chia của kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.

Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mà sắp được dùng đến mấy cái máy ảnh mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp được chưng diện mốt trang phục mới; ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thiết kế cho đám tang, v.v.

Con cháu trong nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã đành, ngay đến các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái “chết thật” của cụ tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông nom rất hết lòng”. Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”

Cụ bà thì “sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đám, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả”. Đó là chưa kể, các “giai thanh gái lịch” Hà thành, nhờ có đám tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình v.v.

Thậm chí, đến cả “cụ tổ” cũng nhờ cái “chết thật” của chính mình mà được sung sướng: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!” Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút Vũ Trọng Phụng, như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang gia đến người ngoài tang gia, từ “khổ chủ” đến khách “đi đưa” đám, từ người sống đến “người chết”.

Nó lại được duy trì bền bỉ đậm đặc từ hết trang nọ tới trang kia theo diễn biến của đám tang, từ lúc “phát phục” đến khi “cất đám”, “đưa đám”, và đến cả khi “hạ huyệt”. Xem thế đủ thấy niềm hạnh phúc mà cái chết kia mang lại thật là vô bờ bến và niềm sung sướng đúng là không còn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả là người thích đùa và rất biết đùa.

Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng có nghĩa rằng cái đám ma kia tất cả là giả. Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy sao cho người ta thấy rõ cái giả ấy đã đành mà còn phải thấy cả tính chất lập lờ giữa cái giả với cái thật. Đã là cái giả, cái rởm thì phải mô phỏng cái thật, cố tình giống thật nhưng thường không bao giờ hoàn toàn giống thật. Thế là xuất hiện mâu thuẫn. Rốt cuộc thì rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi bày.

Một đám ma mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù “to tát”, “danh giá” đến đâu, cũng chỉ là thứ trò diễn nhố nhăng, không thể gọi là đám ma đã đành mà cũng không thể gọi là đám rước đám hội. Mâu thuẫn thật-giả được nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị làm bật ra tiếng cười phê phán.

Quả thật, trong cái xã hội “số đỏ” đầy rẫy những thứ rởm đời bấy giờ, không có cái gì là không làm giả, làm rởm được. Một khi đã có bằng sắc rởm; nghệ thuật, thi ca, khoa học rởm; văn minh “Âu hóa” rởm; tôn giáo rởm,… thì cũng có thể có chuyện buồn đau, tang chế kém lắm chứ. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tường, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật đã trở lại đúng với bản chất của nó.

Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa một sự đối chiếu thật – giả rất thâm thúy: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.”. Nhìn từ phía tác giả, câu văn này ẩn giấu một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có “chết thật”, chết giả?). Nhìn từ phía nhân vật (đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng. Cụ tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng, và cả tang gia đã chờ đợi cái “chết thật” này quá lâu rồi. Cho nên, khi ông cụ “chết thật” thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia “ai cũng” “hạnh phúc”, “vui vẻ cả”…, nhận xét này đã vang lên trong chương truyện như là một điệp khúc đầy mỉa mai.

Mỉa mai hơn, trong khi “đưa đám” người ta cũng thoáng thấy đây đó những gương mặt buồn, nhưng buồn hoàn toàn là vì những cớ khác. Ông Văn Minh có vẻ mặt “đăm chiêu” buồn là vì ông mải nghĩ đến việc “thực hành” cái “chúc thư kia”. Tuyết buồn “lãng mạn” là vì “không thấy bạn giai đâu cả”. Các quí ông “tai to mặt lớn” cảm động không phải vì nghe “tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”, mà vì trông thấy “làn da trắng thập thò” trên cánh tay và trên ngực tuyết,…

Lúc hạ huyệt, người ta cũng nghe thấy có tiếng khóc. Nhưng chỉ là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người, không phải xuất phát từ trái tim, cất lên từ đáy lòng. Cụ Hồng khóc là cốt để người ta phải chú ý đến và khen cái gậy trong tay cụ và trầm trồ khen rằng “con giai nhớn đã già đến thế kia”. Ong Phán mọc sừng khóc “Hứt…! Hứt…! Hứt…!”, “oặt cả người đi” là cốt để người ta phải tưởng rằng, ông là một chàng cháu rể “quý hóa”.

Trong khi kể về “hạnh phúc” của “tang gia”, một mặt, tôn trọng hiện thực, Vũ Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái thật và cái giả đúng như cái hiện thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ. Nhưng mặt khác, ông cũng tỉnh táo vạch ra những đường biên cần thiết, giữa vàng thau, đen trắng và lật tẩy cái giả một cách thật tài tình.

Cả đám tang thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được dàn dựng theo đúng ý của người nọ người kia. Các cụm từ “đúng với ý muốn…”, “như ý…” trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trò diễn ấy của đám ma:

“Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh.”,…

“Ý muốn của cụ cố Hồng”, “ý ông Typn và bà Văn Minh” gợi nhớ đến ý của cậu Tú Tân qua hành vi: “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ,… để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.”. Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã “chụp ảnh”- nghĩa là bấm đúng lúc- và lật tẩy được tất cả. Nói chung, sự lật tẩy của tác giả càng bất ngờ thì càng thú vị, hài hước.

Đọc chương truyện, có cảm giác như không một hành vi giả tạo nào của đám con cháu “chí hiếu” – dù rất nhỏ – qua được mắt ông. Nhưng điều đặc biệt thú vị là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo được bất ngờ. Nhờ thế, tiếng cười mỉa mai bật ra một cách tự nhiên, sâu sắc. Ông lật tẩy Văn Minh chồng:

“Ông phân vân, vò đầu bứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng với cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.” Ông lật tẩy cô Tuyết: “Hôm nay, Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc xê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh.

Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám.” Ông lật tẩy “các ông tai to mặt lớn”: “… Nhiều ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng.”

Ông lật tẩy cả đám đông: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân… Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.”

Ông lật tẩy cả bầy con cháu “chí hiếu”: “Một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ.” Và sắc sảo, bất ngờ nhất là việc ông lật tẩy cuộc “thanh toán hợp đồng” kín đáo, tinh vi giữa ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ: “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng mếu máo và ngất đi thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”. Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy.

Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm sao cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi. – Hứt!… Hứt!… Hứt!… Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách tay ra thì chợt thấy ông phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.”

Cái nhìn trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng thường tìm đến với các hình thức nghệ thuật tương xứng. Từ cách bố cục kết cấu đến cách sử dụng ngôn từ của ông đều đậm chất muối trào phúng. Ở cấp độ kết cấu, hai thủ pháp chủ yếu thường được nhà văn sử dụng khá đắt: a) kết hợp tả viễn cảnh với tả cận cảnh; b) tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện.

Việc kết hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật cao nhất là đoạn kể về việc “cất đám”, “đưa đám” và “hạ huyệt”. Ở đó, sự kết hợp tự nhiên giữa cận và viễn rất hài hòa, tự nhiên, nhưng viễn hay cận đều có chức năng nghệ thuật riêng. Các câu, đoạn tả viễn cảnh – chẳng hạn: “Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy….”, “Đám cứ đi…”, “Đám cứ đi…”- thường làm cho người ta có cái cảm giác là đám ma rất to tát, linh đình, “gương mẫu”. (Mà người đời thì vẫn hay đo lòng hiếu nghĩa của tang gia bằng mức độ to tát, linh đình ấy).

Trong khi đó, các câu, đoạn tả cận cảnh và đôi khi đặc tả, thì lại làm cho người ta có thể soi vào từng góc khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái giả dối, rởm đời, nhố nhăng, kỳ quặc và “vô nghĩa lý” của cái đám tang này. Rõ ràng là chỉ khi soi mắt nhìn vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhặt thì mới thấy được sự thật này: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may.”, hoặc: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…”.

Vậy là, nhìn từ cự ly xa nhà văn thâu tóm được trung thành cái bề ngoài có vẻ giống thật, thậm chí rất “gương mẫu”, “to tát” của đám ma. Còn nhìn từ cự ly gần, thật gần nhà văn đã lật tẩy cái giả, cái thực chất chứa đựng và được che đậy ở bên trong của nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và thói đạo đức giả. Tiếng cười đã bật ra, rất tự nhiên, từ mâu thuẫn thật- giả này.

Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn còn sử dụng hợp lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện. Chẳng hạn, sau khi ông già “chết thật”, đã “được quan trên khám đã qua loa”, niềm vui của đám cháu con tưởng đã có thể nở rộ, thì vì một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Lập tức có bao nhiêu phản ứng chỉ trích lẫn nhau giữa “phái trẻ” với “phái già”:

“Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thơi, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations.

Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng-xê ra thì có thể ban cho những ai có tang đường đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ cố Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi.

Vậy đấy, người trong tang gia đã phải “la ó lên…”, “điên người lên…”, sốt cả ruột”, “rất bực mình”, “đổ lỗi cho…”, “kêu khổ lắm”,… Câu chuyện trở nên căng thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hoãn có một ngày mà người ta đã bực dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già tám mươi này cứ “sống mãi” thì họ còn bực dọc, sốt ruột, đau khổ đến mức nào. Thế mới biết, có được niềm “hạnh phúc” như của “tang gia” này cũng không dễ dàng gì. Ở cấp độ ngôn từ, chất muối trào phúng được cô đặc trong một số hình thức câu văn nói mỉa.

Có khi nhà văn mỉa mai bằng lời văn có chứa các cụm từ phản nghĩa, ngược nghĩa. Ví dụ cụm từ “hạnh phúc của một tang gia” trong nhan đề đoạn trích, hoặc cụm từ “công hiệu đến nỗi họ mất mạng” trong đoạn văn nói về “thuốc thánh” đền Bia (“Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng.”).

Có khi ông mỉa mai bằng câu văn viết theo lối nói ngược. Chẳng hạn, sau khi ghi lại hàng loạt câu nói “thì thào” trơ trẽn, nhảm nhí của đám “trai thanh gái lịch” đến dự đám tang, tác giả viết: “Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.”

Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ già” đến đám ma giả của tang gia, và từ cái đám ma giả tang gia đến niềm vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong chương truyện này là cả một hành trình sáng tạo của một tài năng lớn – tài năng trào phúng Vũ Trọng Phụng.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 8

Đoạn trích ” Hạnh phúc của một tang gia” – trích trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng được coi là một tác phẩm nổi tiếng và mang nhiều ý nghĩa về cuộc sống con người thời đó. Cũng là tác phẩm lên tiếng căm hờn, khinh bỉ cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.

Khi đọc nhan đề của tác phẩm chắc không ai không thắc mắc phải không nào? Đám tang là nơi thể hiện sự tôn kính, trang nghiêm lịch sự và tiếc thương với những người đã khuất nhưng đám tang trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đó là một niềm vui, là cơ hội để cho mọi người khoe của là nơi để mọi người đùa giỡn nói chuyện cười đùa cùng nhau. Các thành viên trong gia đình bận rộn để tổ chức chu đáo, cho thật linh đình một ngày vui, một đám hội chứ không phải một đám ma. Và là hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi mà người thân của mình ra đi. Cho thấy được cái xã hội của tầng lớp thượng lưu lúc bấy giờ chỉ màng đến danh lợi mà không màng không thương tiếc gì người thân của mình.

Tác phẩm đã nói lên được cái chết của cụ tổ đó là cái chết của sự ấm ức, đã được mọi thành viên trong gia đình mong chờ. Xuân tóc đỏ là một nhân vật được tác giả đưa vào để làm nền tảng, là người gây ra cái chết cho cụ tổ. Tất cả các thành viên trong gia đình gào lên như buồn đau xót trước cái chết của cụ tổ nhưng thật ra không phải vậy, mà đó là sự vui mừng hạnh phúc khi cụ tổ chết đi và để lại một khối gia tài to lớn cho các thành viên.

Cụ cố Hồng con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết thật của cha mình và cho rằng đây là cơ hội để cụ tỏ ra sự già yếu khi lo cho cái chết và bất ngờ trước cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được cái sự lố lăng mà ngu dốt hám danh trong cái xã hội phong kiến.

Văn Minh và ông Typn thì vui mừng về cái chết của ông nội và vui mừng hơn khi ông được đưa nền văn minh Á Âu và quảng cáo hàng của mình vào đám tang của ông nội mình. Không chỉ vậy ông còn tìm cơ hội để trả ơn cho Xuân tóc đỏ để bịt miệng những tội ác của ông. Bà Văn Minh thì vui mừng vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Tỏ ra sự vô ơn bạc nghĩa là một kẻ vô học thức.

Cô Tuyết thì được dịp mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh, đồng thời lại có cơ hội để gò lấy trên mặt lại hơi có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Để tỏ ra sự mất trinh trắng của mình còn tỏ ra mình là một người hư hỏng không được dạy dỗ.

Cậu Tú Tân thì vui mừng vì có thể chụp ảnh vì cái máy ảnh của cậu để lâu ngày không dùng, cậu tỏ ra là mình là đạo diễn và săn ảnh chụp ảnh một cách lố lăng tạo ra những cảnh của không khí đám tang.

Ông Phán Mọc Sừng thì vui mừng vì cái sừng trên đầu mà được hưởng thêm tiền. Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng càng nhiều được nhiều người tôn trọng đánh giá cao vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.

Thông qua các nhân vật trên tác giả đã khái quát được một cách khái quát về các thành viên trong nhà cụ tổ. Thông qua các nhân vật này ta có thể thấy được cái bản chất lố lăng vô học của các thành viên trong gia đình khi có người thân của mình ra đi.

Không chỉ các thành viên trong gia đình mà còn có những người ngoài của gia đình cũng vậy, là cơ hội để những người không có việc làm có việc làm, là cơ hội để mọi người nói chuyện cười đùa cùng nhau, cùng những người khoe của khoe cái sự giàu sang của mình, là dịp để họ hẹn hò, cặp kè, nói chuyện tình tứ, đi dạo phố cùng nhau. Và niềm sung sướng hơn khi thấy được những vùng nhạy cảm hấp dẫn của cô Tuyết đứa cháu hưng hỏng.

Cảnh đám tang được diễn ra như đám hội như một tấm đại hài kịch, nói lên sự lố lăng, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước. Qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phê phán phán mạnh mẽ bản chất bất nhân, giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 9

Được gọi với cái tên ông vua phóng sự đất Bắc, Vũ Trọng Phụng là nhà văn yêu thích của không chỉ rất nhiều độc giả mà còn với nhiều văn nghệ sĩ trong văn đàn Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông chính là tác phẩm Số đỏ. Số đỏ là tiểu thuyết được Vũ Trọng phụng viết năm 1936, được coi là một kiệt tác của văn học trào phúng. Ta có thể tìm hiểu điều đó rõ nhất qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.

Ngay từ cái tiêu đề người đọc có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rõ ràng: tang gia nhưng lại hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lí. Nhưng nếu đọc truyện thì lại thấy tiêu đề này vô cùng hợp lí. Cái mà xã hội vốn coi là nghịch lí lại trở thành rất hợp lí trong gia đình đại bất hiếu này.

Bối cảnh của đoạn trích là sự ra đi của ông cụ tổ là bố của cụ cố Hồng, đã ngoại tám mươi tuổi và nay ra đi bởi vì uất ức trước việc cháu rể chồng của cụ ngoại tình. Theo lẽ thường cái chết của người có địa vị nhất nhà, người đóng vai trò là điểm tựa tinh thần vững chắc cho các thế hệ thành viên trong gia đình sẽ làm đau đớn, tan nát trái tim của con cháu. Nhưng ở đây, cái chết của cụ cố tổ dường như lại chính là niềm mong đợi mòn mỏi của các thành viên từ rất lâu. Như một nhà quay phim, ống kính của tác giả quay cận cảnh từng nhân vật một. Mỗi nhân vật lại có một hạnh phúc riêng, một niềm vui khôn tả:

Cụ cố Hồng hạnh phúc vì sẽ được mọi người trọng vọng về tuổi thọ của người con giai nhớn là “cố Hồng”. Dù vẫn còn trẻ chưa đến cái tuổi “thọ” nhưng cụ luôn thích được mọi người trọng vọng, kính nể, thích được tôn sùng như một vị cụ cố đức cao trọng vọng. Hẳn rồi, bố mình chết thì mình dĩ nhiên trở thành người địa vị lớn nhất nhà, không cố thì còn là gì nữa. Ông Văn Minh thì mừng vì đây là thời kì cái chúc thư đi vào thời kì thực hành. Ông nội mất thì cái sản nghiệp của ông mới được chính thức để lại cho con cháu mà người cháu trai này hẳn đang sốt ruột như ngồi trên tổ kiến mong chờ nó được thực hiện.

Bà Văn Minh thì mừng vì đây là cơ hội quảng cáo cho những mốt áo tang, đem lại lợi nhuận cho tiệm may. Đám tang của cụ cố tổ hẳn là một cái đám tang long trọng và tầm cỡ, sẽ có rất nhiều người đến dự đủ các tầng lớp từ quan chức tới tầng lớp bình dân, với một “ngày hội” lớn như vậy, nếu để các thành viên trong gia đình cùng diện những bộ áo tang tân thời của bà thì không những không mất tiền quảng cáo mà những bộ váy ấy sẽ được rất nhiều người biết đến và tìm đến với cửa hiệu Âu hóa.

Cô Tuyết thì vui mừng vì đây là cơ hội trưng diện y phục mốt nhất trước mặt người yêu cùng mọi người. Với cái vẻ đẹp xuân sắc cùng sự giàu có của gia đình, cô có thể sắm những bộ cánh điệu đà để Xuân tóc đỏ cùng mọi người ngắm nhìn sự thơ ngây của mình.

Với cậu Tú Tân thì đây là cơ hội để cậu điều khiển các nhà tài tử điện ảnh thi thố tài năng trước mắt mọi người. Thời điểm đương thời, có được những chiếc máy chụp hình đã không phải những gia đình tầm thường, giờ đây cậu lại có thể khoa chân múa tay yêu cầu cả một nhóm thợ phải chụp kiểu này kiểu kia, góc này góc khác, quả như một nhiếp ảnh gia tầm cỡ, đầy nghệ thuật. Có vẻ như gia đình nhà cụ cố tổ ai cũng theo đuổi những nét đẹp nghệ thuật hiện đại và đời mới nhất.

Ông Phán mọc sừng thì mừng bởi cuộc thương thảo với Xuân tóc đỏ đã kết thúc tốt đẹp, đúng như ông mong đợi, thành công mỹ mãn. Ông vừa có thể công khai cho gia đình nhà vợ cái hãnh diện vì mình được là một người chồng mọc sừng, có thể vạch trần cô vợ lăng loàn Hoàng Hôn. Cái vụ thương thảo mà ông đã mất tiền túi giờ đây lại phát huy tác dụng còn hơn cả mong đợi, làm cho tất cả mọi người đều biết, làm cụ cố tổ tức đến nỗi chết vì uất.

Đối với bạn của cụ cố Hồng, đây là cơ hội trưng diện các kiểu râu và các loại mề đay, “Bắc Đẩu Bội Tinh, Long Bội tinh, Cao Mên Bội tinh, Vạn Tượng Bội tinh…”. Không phải bỗng dưng mà trời cho cơ hội để khoe những cái đó với bàn dân thiên hạ, vậy thì giờ đây, cả thiên hạ sẽ phải nhìn vào những huân chương của các ông. Đồng thời đây cũng là cơ hội để họ chen nhau đi gần quan tài để nhìn bộ ngực của cô Tuyết qua làn áo voan của bộ váy ngây thơ.

Đối với đám bạn của con cháu: bà phó Đoan, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết… gồm toàn giai thanh gái lịch, nam thanh nữ tú của đô thành nhưng họ đi ở đây là để trưng diện những bộ cánh hiện đại nhất, đám tang sẽ là một sân khấu lớn và họ sẽ là những người mẫu thời trang catwalk trên sàn diễn của mình. Đây cũng là cơ hội để họ chim chuột nhau, cười tình với nhau, bình phẩm chê bai nhau.

Cả đám tang liên tục xuất hiện điệp khúc “đám cứ đi”, diễn tả một sự tiếp diễn bất tận, cái sự việc đưa một đám tang như một con đường trải thảm đỏ để người ta bước đi trình diễn trong sự trầm trồ ngắm nhìn của mọi người.

Cảnh hạ huyệt là lúc hội tụ đầy đủ nhất sự giả dối vô đạo đức cũng là lúc mà các vai hề diễn xuất một cách tài tình nhất (cảnh hề ấy lại gợi liên tưởng tới đám ma của Gorio trong tác phẩm của Balzac), nào là người gục người quỳ người gào khóc, tất cả theo đúng sắp xếp của cậu Tú Tân để cậu thực hiện bộ ảnh trong những phút giây để đời. Đến ông cháu rể Phán mọc sừng cũng nghẹn ngào tiếng khóc “Hứt! Hứt Hứt” giống với mong muốn hất hất hất đất vào huyệt của ông.

Đám tang đã diễn ra theo đúng quá trình và đạt được kết quả viên mãn, đúng với mong đợi của mỗi người. Ai cũng thấy khấp khởi mừng thầm vì cơ hội trời ban và họ đã đạt được đúng nỗi niềm mong mỏi khi giữa cái đám danh giá nhất thì họ đã được phô trương những thứ mà mình muốn khoe.

Tên truyện tưởng không thật nhưng quả đúng là rất thật. Mỗi người đều thực sự có những niềm hạnh phúc riêng, không hề giả tạo, tâng bốc. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng và tác phẩm Số đỏ nói chung đã vạch trần bộ mặt của nền văn minh phương Tây và phong trào Âu hóa, nhưng thực chất đây là sự ăn chơi đồi bại của bọn trưởng giả ở thành thị. Mặt khác tác phẩm cũng phơi bày hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng, một xã hội nhốn nháo thật giả lẫn lộn. Kẻ vô học nhưng giỏi bịp thì trở thành vĩ nhân, một mệnh phụ đồi bại dâm đãng thì được cọi là một tấm gương về đức hạnh, một gia đình băng hoại về đạo đức thì được coi là mẫu mực về nền nếp.

Phân tích Hạnh phúc của một tang gia lớp 11
Phân tích Hạnh phúc của một tang gia lớp 11

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 10

Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ông là “ông vua phóng sự của đất Bắc Kì”. Đúng vậy, ông có một công trình đồ sộ về phóng sự và tiểu thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936).Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết “Số Đỏ” của ông. Với những sự thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã nêu lên được những nét chủ đạo của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.

Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng cười xót xa. Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích”. “Cái chết của ông già hơn 80 tuổi” đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không “Hạnh phúc của một tang gia” lại đúng khi cụ tổ mất. Những tiếng khóc, sự “báo hiếu” của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngòi bút trào phúng, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.

Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ vào mục đích của bản thân?

Cụ cố Hồng – con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết của cha mình và cho đây là một cơ hội để tỏ ra già yếu khi lo cho cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được những sự lố lăng mà ngu dốt ham danh trong xã hội phong kiến.

Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh Á-Âu vào quảng cáo ở đám tang. Thật đau lòng thay, một đám ma hay là một phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà Văn Minh thì lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.

Trong đoạn trích tác giả còn nói về cô Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y phục gây thơ “Cái áo voan mỏng trong coóc-xê, hở cả nách cả vú” tưởng như tác giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cô Tuyết này còn thể hiện ở cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi buồn nhớ người tình.

Hết đến cô Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà không dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại dẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.

Hay chính ông Phán Mọc Sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng lại càng nhiều hơn và càng được nhiều người tôn trọng vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.

Không chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà còn những người ở ngoài cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự “âu hóa”. Hay tại chính đám ma này cũng là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” “chim cò” nhau. Thật đáng lên án thay.

Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, tây-ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như đang đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ oà của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn, thì lại là sự phô của, sự tình tứ nhau.Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên mà Vũ Trọng Phụng lại viết “Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu.” Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.

Như vậy, qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” cho người đọc thấy hiện thực xã hội lúc đương thời, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ. Những tiếng cười ra nước mắt vì đạo đức con người bị suy thoái, sự âu hóa tây ta lẫn lộn làm nên sự lố bịch. Từ đó, đáng lên án, phê phán gay gắt bộ phận này trong xã hội. Đồng thời, cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 11

Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang gia.

Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng nào, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết. ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.

Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội ở Tây dở ta buổi ấy.

Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.

Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma. Tang gia ai cũng vui vẻ cả.

Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen. để quảng cáo cho một kiểu đồ tặng mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.

Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!

Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay., Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay. đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng.

Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hóa mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn. ai oán, não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ.

Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh.. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quản.Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau. Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.

Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!

Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người.

Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.

Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt. để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư. để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.

Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 12

Một trong số những tác phẩm văn học tiêu biểu cho xu hướng hiện thực đã phê phán kịch liệt cái xã hội tư sản thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 là tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Với lối văn châm biếm sắc sảo các chương trong “Số đỏ” đều là những màn hài kịch đầy thú vị, đặc biệt là chương XV “hạnh phúc của một tang gia”.

Trước hết ta hãy quan sát xem những người trong tang quyến của cái gia đình danh giá và đám tang có một không hai ấy xem họ đang nghĩ gì, làm gì trước sự kiện mà bấy lâu họ mong chờ. Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được là ” Tang gia có hạnh phúc”. Mâu thuẫn và nực cười phải không? Bởi lẽ, thông thường tang gia nào cũng buồn rầu, đau đớn trước cái chết của người thân. Trái lại mỗi người trong gia đình cụ cố Hồng đều vui mừng, cảm thấy có hạnh phúc khi cụ cố tổ vừa mất. Thử xem từng người vui ra sao nhé. Ông phán mọc sừng thấy hạnh phúc vì được thêm số tiền là vài nghìn đồng bù khoản bị vợ cắm sừng . Người con trai cả – Cụ cố Hồng nhắm mắt mơ màng đến cái lúc cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy. để thiên hạ đều chi trỏ khen một cái đám ma như thê, một cái gậy như thế. Ông Văn Minh thì lại thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa. Còn cậu Tú Tân sướng điên người vì có dịp thi thố tài chụp ảnh. Bà Văn Minh nôn nao chờ lăng xê kiểu đồ tang tân thời của hiệu may Âu hóa, cuối cùng được như ý. Cô Tuyết dịp khoe với thiên hạ cái cơ thể còn gợi cảm qua lần áo tang mỏng để nói rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh”. Hạnh phúc cứ thế mà tuôn ra, trào ra khó dấu diếm.

Sự hấp dẫn của đoạn trích còn ở những mâu thuẫn trào phúng cơ bản. Trước hết nó nằm ngay trong nhan đề của chương: “Hạnh phúc của một tang gia”. Mọi thành viên trong gia đình đều thấy đây là một dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện được ý đồ riêng tư của mình. Cho nên cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân.

Tuyệt nhiên không ai tỏ ra đau buồn thương tiếc người quá cố. Thiếu vắng loại tình cảm ấy, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Thật vậy, còn phũ phàng hơn là bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ. Chính ông Văn Minh, cháu nội của người quá cố, còn thầm biết ơn Xuân Tóc Đỏ, tình cờ đã gây ra cái chết của cụ già đáng ghét.

Tiếp theo là cảnh đám tang. Đập vào mắt người ta trước tiên là sự đua đòi lối sống văn minh rởm. Với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua một số chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi lối sống văn minh rởm ấy. Đó là một đám ma to tát, long trọng, theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bu đích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Đám ma ấy làm huyên náo cả thành phố bằng kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Bằng màn trình diễn, quảng cáo đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen mà nhân đó, Tuyết bèn mặc đồ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Đám ma ấy còn làm huyên náo bằng việc có thể bán cho những ai có tang đường đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ sự việc ta sẽ nhận ra ngay thực chất kỳ quặc, lố lăng của đám tang lạ đời đó. Những gì gọi là to tát, long trọng, danh giá của cái đám ma này chỉ là sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh hết sức kì quặc, qua những hình thức nghi lễ đưa tang hổ lốn đến buồn cười. Và không thể cầm lòng được, tác giả đã phải hạ một câu văn diễn đạt đầy đủ, trọn vẹn sự mỉa mai đến cực độ: “Thật là một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cúi đầu!.”

Còn một thành phần vô cùng quan trọng nữa trong đám tang, góp phần làm nên sự to tát của nó, đó là những người đưa tang. Bọn họ là ai? Hãy thử nhé. Trước tiên là những ông bạn thân của cụ cố Hồng hình như đưa đám tang để khoe huân chương, huy chương, khoe những kiểu râu hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn. Các vị tai to mặt lớn của xã hội thượng lưu đó đều cảm động (.) khi trông thấy làn da thập thò trong làn áo voan trên cánh lay và ngực Tuyết. dù họ đang sát ngày với linh cữu. Rồi đến hàng trăm giai thanh gái lịch của Hà Thành văn vật đang Âu hóa với một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân. đều mang vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma. Cả đám đông đưa tang đó vừa đi vừa chim chuột, soi mói, bình luận về cơ thể phụ nữ, nói với nhau những chuyện nhảm nhí trong đời sống đồi bại thường ngày của họ, đã biểu lộ mọi góc cạnh của cái vô văn hóa vô đạo đức của bọn người cặn bã của xã hội tư sản thành thị thời ấy. Tác giả tiếp tục sử dụng các yếu tố phóng đại về dạng cách lố bịch, tạo mâu thuẫn và gây cười một cách kín đáo và để ta thấy rõ họ giống như thật, họ ở đâu đó ngoài đời. Đồng thời phơi bày một sự thật họ là bọn người mang cái danh hão thượng lưu, văn minh là bọn cặn bã của xã hội tư sản thành thị.

Còn tác giả – kẻ làm phúc cho tang gia khi đã tạo ra cái chết mà con cháu đang trông chờ từng giây phút Xuân Tóc Đỏ? Xuất hiện giữa đám tang đang di chuyển, đã làm cho cảnh đưa đám thêm lố lăng. Hắn bộc lộ tính tinh quái, láu lỉnh bên cạnh tính đểu cáng và dâm đãng vốn có. Hắn biết tự quảng cáo đúng chỗ, xuất hiện đúng lúc, đáp ứng đúng ý thích của những người mà hắn cần lấy lòng như Tuyết, như cụ bà. Đến cảnh ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư, Xuân Tóc Đỏ vội nắm tay cho khỏi có người nom thấy trở thành đỉnh điểm của màn hài kịch đưa tang này. Sự giả dối, bịp bợm ở đây thật vô sỉ đến ghê tởm.

Bằng ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo đồng tiền, đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một nhà văn hiện thực hàng đầu trong nền văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 13

Vũ Trọng Phụng là nhà văn của trào lưu văn học hiện thực với các tác phẩm ông lên án xã hội đương thời. Đặc biệt là tác phẩm Số đỏ đã khắc họa rõ xã hội đương thời một xã hội bị thực dân Pháp cầm quyền. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia đã tái hiện cảnh tang gia của gia đình cụ cố Hồng với những sự lố bịch, kịch cỡn nhất.

Cảnh tang gia bối rối khi có thông báo cụ cố Tổ chết. Điểm nhìn được đặt vào đám con cháu. Nguyên nhân là do các thành viên vui vẻ vì cụ cố Tổ chết tờ di chúc đã đi vào thực hiện để được chia gia tài. Gia đình chuẩn bị đám tang với gia đình cụ cố Hồng rất bận rộn chuẩn bị. Trên gác vợ chồng cố Hồng tranh cãi về việc lấy chồng của Tuyết, dưới nhà con cháu sôi sục giờ phát phục đưa tang thực hiện những công việc mong muốn, buôn bán khoa khoang tiền tài danh vọng. Đám tang và lễ tiết, hình thức cùng nội dung chuẩn bị chu đáo.

Cụ cố Hồng cha Văn Minh con trai cụ cố Tổ người cao tuổi nhất trong gia đình lại thích mọi người nhìn mình già, thích nghe gọi cụ đó là sở thích quái dị, chi tiết trào phúng là linh hồn toàn tác phẩm. Trong lúc gia đình nhốn nháo. “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” bối rối, gắt gỏng, lo liệu phù hợp với đám tang nhưng cụ chẳng biết gì, phát ngôn như con vẹt. Ung dung ngồi hút 60 điếu thuốc viện tỏ vẻ đăm chiêu nhưng biểu hiện cho một trạng thái không chút buồn đau che giấu một sự trù tính, khoe mẽ bên trong. Chi tiết “nhắm nghiền mắt” tỏ vẻ bối rối nhưng đang mơ đến giây phút mình được diễn tròn vai một người con già cả có hiếu. Chi tiết kết hợp với giọng điệu mỉa mai, bút pháp khoa trương làm bật lên hình ảnh cụ cố đại diện cho bọn trọc phú hãnh diện trong xã hội đương thời.

Ông Văn Minh với vẻ bề ngoài vò đầu bứt tóc, phân vân đăm đăm, chiêu chiêu bên trong thì lo mời luật sư để chứng kiến cái chết của ông nội để chúc thư kia đi vào thời kì thực hiện.

Bà Văn Minh sốt ruột vì không được lăng xê tân thời diễn thời trang. Còn Văn Minh lại nghĩ đến Xuân tóc đỏ người có công nhiều nhất dẫn đến cái chết của cụ cố Tổ. Mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài với nội dung bên trong để thấy Văn Minh hiện lên bất hiếu cái chết của ông nội đơn thuần là việc kinh doanh.

Cụ Tú Tân với vẻ bề ngoài điên người lên, bên trong sốt ruột chờ đợi được dùng máy ảnh chưa bao giờ sử dụng. Đám tang là thời cơ để cậu thể hiện tài năng. Đó là một kẻ háo tài. Còn Phán mọc sừng là người sung sướng nhất ngỡ ngàng với giá trị to lớn của cặp sừng. Đó là người vô đạo vô sỉ không có liêm sỉ, sung sướng vì được cho thêm tiền. Đồng tiền với phán mọc sừng cao hơn cả hạnh phúc, cả danh dự.

Còn Xuân tóc đỏ nhân vật trung tâm nhưng lại chưa xuất hiện nhưng hắn lại là người có công nhất. Cái chết của cụ cố Hồng đã mang đến cho hắn nhiều tiền, danh và tình. Cái buồn bỗng thành niềm vui, đại tang hóa đại hỉ, buồn trong lúc vui đã là điều bất nhã, vui trong lúc buồn lại là điều bất nhân. Cả gia đình cụ cố Hồng là địa bất nhân bất nghĩa. Từ đó mà Vũ Trọng Phụng muốn nói sự thật đắng cay lối sống Âu hóa với quyền lực của đồng tiền. Nhà văn xót thương cho số phận những người sống trong xã hội này, những con người trở thành con rối của xã hội.

Đặc biệt cảnh đưa đám và cảnh hạ huyệt đã nói lên hoàn toàn xã hội đó. Khâu chuẩn bị náo nhiệt bao nhiêu thì thì lúc đưa lại náo nhiệt bấy nhiêu. Đám tang to tát, sang trọng đám tang đi đến đâu làm huyên náo thành phố đến thế bởi sự phô trương, đám tang hổ lốn, hỗn tạp có sự pha trộn nhiều văn hóa. Những người đưa đám đủ thành phần, đủ đối tượng, cảnh sát, từ đám quan khách to đến người nghèo hèn. Tất cả không ai quan tâm đến người đã khuất mặc dù họ có vẻ bề ngoài rất hợp đám tang. Đám tang vang lên hai lớp âm thanh: khóc lóc những người trong tang gia đó là tiếng khóc giả không đau thương và âm thanh trò chuyện của những người đưa đám. Đã vẽ ra một xã hội bịp bợm luôn khoác trên mình chiếc áo đạo đức giả cố tô son trát phấn.

Cảnh cử hành tang lễ “đám cứ đi” tồn tại vẫn diễn ra. Câu khẳng định kết hợp dấu hiệu ba chấm của tác giả khẳng định đám tang giả dối bề ngoài tranh nghiêm, cận cảnh lố bịch. Sự giả dối ấy vẫn tồn tại vẫn được chấp nhận. Phải chăng “chó điểu” với những con người vô nghĩa lí.

Cảnh hạ huyệt là cảnh trào phúng lố bịch nhất với chi tiết cậu Tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một để chụp ảnh. Cậu làm đạo diễn cho một màn hài kịch được lập ngay trên màn hạ huyệt. Đám rước đám hội chứ không phải đám ma. Chi tiết ông phán mọc sừng khóc to mãi không thôi cả đại gia đình phải ghi nhớ công ơn. Âm thanh “Hứt!.Hứt!” thoạt nghe tưởng tiếng khóc của con trai nhưng nghe kĩ là tiếng hất đất thật nhanh để về chia tài sản. Hay tiếng hất của tác giả muốn hất cả đất trời. Chi tiết ông phán dúi Xuân tờ giấy bạc năm đồng gấp tư để cảm ơn Xuân là chi tiết trào phúng tinh vi nhất là đỉnh cao sự giả dối bới đây là giờ phút từ biệt sinh li dành sự quân tâm cho người đã khuất mà vẫn còn thời gian nghĩ đến tiền. Lợi dụng cái chết của người thân để kiếm tiền.

Qua cái chết của cụ cố Tổ niềm vui không chỉ dừng lại trong gia đình mà còn lan ra ngoài xa hội. Đoạn đức gia đình bằng loạn, đạo đức xã hội không có. Cả đám tang là sân khấu kịch đời và đám con cháu là diễn viên đẹp nhất, con cháu bất nhân, xã hội vô đạo đều vì tiền, tình, danh lợi.

Tác phẩm đã khắc họa bức tranh xã hội lúc bấy giờ với quyền lực của đồng tiền đặt lên trên tình cảm người thân trong gia đình. Từ đó mà tác giả muốn lên tiếng phê phán và là bài học cho chúng ta để thấy được gia đình luôn là điều quan trọng nhất.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 14

Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. Ông vua phóng sự đất Bắc liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: “Giông tố”, “Số đỏ”. “Làm đĩ”, ” Vỡ đê”. “Hạnh phúc của một tang gia” là đoạn trích nằm trong tác phẩm “Số đỏ”.

Tang gia là gia đình đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã “sướng lắm”.

Tác giả đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày sự đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những quái thai của cái xã hội dở Ta dở Tây buổi ấy. Bố chết, ông chết “bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích”. Đây là dịp hiếm có để khoe của, kheo giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân. Niềm vui tràn ngập:” tang gia ai cũng vui vẻ cả”.

Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cậu gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng ” đến cái giờ phút hạnh phúc “hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ::” một cái đám ma như thế một cái gậy như thế”, rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: úi giời, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa.,.”. Con trai đã “báo hiếu” cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.

Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng, Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có một “mảnh bằng nào cả” về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò “Âu hóa” nhằm “phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp”. Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì “cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách “chống gậy”, “gục đầu”, “cong lưng”, “lau mắt”, như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y “luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng” như một tên hề!

Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát “một đám ma gương mẫu” nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoảng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù “theo cái lối Ta Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật cái đầu.”. Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

“Có bao đám quan khách” quý phái và ” sang trọng” đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là ‘”giai thanh gái lịch”, là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan. Họ đến đưa ma là để “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau.”. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ” hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả “Số đỏ” đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe tài khoe đức ấy “đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung hoặc lún phún hay rầm rạp, loăn quăn,.”. Người đọc phải ôm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân!

Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp “phục bút” khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ ” ngây thơ” để đi mời trầu và thuốc lá quan khách với “vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Cô vô cùng sung sướng khi thấy “anh Xuân” đã đến bên “liếc mắt đưa tình . để tỏ ý cảm ơn” Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với 6 chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn. đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: “Ấy, giá mà không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên “danh giá nhất tất cả”.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán “mọc sừng” vốn đã nhờ “đôi sừng hươu” ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: “Hứt!. Hứt!.. Hứt!.” để báo hiếu vẫn không quên giữ chữ “tín” với ân nhân. Ông ta đã “dúi vào tay” Xuân ” một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư”. Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra song phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán “mọc sừng” như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch “đám ma gương mẫu”. Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn “thượng lưu”, đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người ‘ chó đểu” trong cái xã hội “chó đểu” là như thế đó!

Tóm lại. qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả “Số đỏ” là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả !

Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 15

Có người nói rằng: Hài vồn là cái bi được đẩy lên đến đỉnh cao. Gốc của cái hài là cái bi, và sâu xa hơn là khát khao cái đẹp. Đằng sau tiếng cười ta thấy sự phê phán, bất bình của tác giả trước hiện thực. Điều này hoàn toàn có thể kiểm chứng qua những sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Mỗi tác phẩm của ông là một chuỗi cười dài đầy căm phẫn ném vào cái xã hội lố lăng, đồi bại đương thời. Trong số đó, số đỏ (1936) là tác phẩm tiêu biểu. Tiếng cười sắc nhọn của ông bật ra ở tất cả các chương trong cuốn tiểu thuyết. Đặc sắc nhất là đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, nằm ở chương XV. Đoạn trích đã lột tả được toàn bộ chân dung các nhân vật thông qua một tình huống đặc biệt.

Mỗi chương trong tiểu thuyết số đỏ đều có một nhan đề riêng và nhan đề nào cũng giật gân, độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc. Ngay trong cách đặt tên: “Hạnh phúc của một tang gia” đã bộc lộ tình huống trào phúng: “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”, Nhà có người chết mà lại vui. Nhan đề này cho thấy tang gia quả có bối rối thật nhưng bối rối một cách sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám ma mà để tổ chức một ngày hội, một đám rước. Tiếng cười chỉ bật lên khỉ có mâu thuẫn, những chuyện ngược đời, trái lẽ thường, nhân sinh. Từ tiếng cười có tính chất mở đầu rất quan trọng này, người đọc theo sự chỉ dẫn của tác giả khám phá hàng loạt mâu thuẫn tiếp theo và ở mỗi mâu thuẫn, tiếng cười lại được bật ra thành một chuỗi cười dài đầy đau xót. Thông qua tình huống trào phúng này, chân dung các nhân vật trong xã hội “Số đỏ” cũng hiện lên hết sức sinh động, từ chân dung các cá nhân tới chân dung cả một tập thể, từ các thành viên trong gia đình tới các nhân vật đám đông ngoài xã hội. Nếu chân dung các cá nhân hiện lên rõ nét nhất trong cảnh tang gia thì chân dung nhân vật đám đông lại được bổ sung ở cảnh đưa đám.

Người chết là cụ cố tổ. Cụ để lại cho con cháu một gia tài lớn nhưng cụ già quái ác này lại ghi trong di chúc là chỉ chia tài sản cho con cháu sau khi cụ qua đời. Bởi vậy đám con cháu sốt ruột mong chờ cái chết của cụ như chờ đợi một niềm hạnh phúc. Và “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Như vậy, bước đầu tiên, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện ra cái hạnh phúc chung của đám con cháu cụ cố tổ. Cái hạnh phúc của họ làm cho nỗi bi ai tử biệt sinh li hoàn toàn mất ý nghĩa. Không khí đám ma cứ rộn ràng, tưng bừng như đang vào chính hội: “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê đám ma”; “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thoả thích”, Khách khứa đến chia buồn cũng “tấp nập” không kém.

Không dừng lại ở việc phát hiện ra niềm vui chung của đám thân thích trước thây ma xấu số, Vũ Trọng Phụng còn tiến thêm một bước quan trọng, đưa ngòi bút sắc sảo lách sâu vào suy nghĩ của mỗi nhân vật để bóc trần và tung hê lên không thương tiếc tất cả cái vui, cái hạnh phúc riêng đầy ích kỉ của chúng.

Cụ cố Hồng hiện lên là kẻ rởm đời, học đòi. Mới 60 tuổi mà đã thích người ta gọi là cụ cố. Từ trước tới nay cụ chỉ được diễn cái trò già cả trong gia đình. Thì nay, cái chết của ông bố dã tạo cho cụ cái cơ hội vàng để ông có dịp khoe già với thiên hạ. Cụ nhắm mắt mơ màng tới cảnh mình mặc đồ xô gai, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ chỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Trong lúc tang gia bối rối, thẳng bồi tiêm đếm được đúng 1782 câu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Cụ biết gì? Chúng ta không biết, chỉ thấy rằng lồ lộ trên trang giấy là một kẻ thích thể hiện. Cụ lặp lại câu nói ấy như một con vẹt . Không tư tưởng bởi chính câu nói đó cụ cũng không ý thức được nó là thế nào. Cũng như con số 1782 câu nói “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, người đọc không thể không chú ý tới con số 60 điếu thuốc phiện. Người ta thường nói “tang gia bối rối” nhưng ở đây hình như cụ cố Hồng không có chút mảy may lo lắng nào. Việc ông bố nằm xuống chẳng liên quan gì tới nếp sinh hoạt, của cụ cố. Cái khoái cảm của thuốc phiện để lại trong phổi đã xua tan hết thứ tình cảm cha – con nguyên sơ. Không chỉ bất hiếu, cụ cố Hồng còn đáng khinh bỉ hơn vì cố đóng vai một người con hiếu đễ. Người đọc sau tiếng cười bật ra trước sự kì quái của cụ thì lại càng đau xót và căm phẫn hơn khi nhận ra bản chất giả dối, hợm hĩnh, khoa trương ở nhân vật.

Dân gian có câu: “nhà dột từ nóc”, đám con cháu của cụ cố cũng tỏ ra không chịu kém cạnh cha ông mình. Chân dung đám con cháu phải kể tới đầu tiên là ông Văn Minh. Nhân vật này hiện lên với bộ mặt đăm đăm chiêu chiêu rất phù hợp với cảnh nhà có đám. Tuy nhiên, cái khiến ông mang bộ mặt ấy không phải là nỗi niềm dành cho người đã khuất mà là nghĩ cách làm sao “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông cụ” để “cái di chúc kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không phải là lý thuyết viển vông nữa”, Thêm vào đó, ông băn khoăn không biết nên đối xử với Xuân Tóc Đỏ thế nào. Xuân có tội đã tố cáo một em gái ông hoang dâm và quyến rũ một cô em gái khác làm cho gia phong nhà ông phải một phen chao đảo nhưng lại có công làm cho cụ tổ “chết thật”. Với Văn Minh, hai cái tội kia chỉ là tội nhỏ còn công của Xuân mới thực là lớn. Thì ra, danh dự, phẩm giá của gia đình không có giá trị bằng những đồng tiền mà ông sắp được hưởng. Vũ Trọng Phụng đã rất tài tình khi phát hiện ra cái mâu thuẫn giữa hiện thực và bản chất, giữa bên ngoài và bên trong của nhân vật này. Bộ mặt đăm chiêu kia không xuất phát từ tình thương nhưng lại rất hợp với cảnh một người đang lúc tang gia bối rối.

Cậu Tú Tân thì “điên người lên” vì đã chuẩn bị mấy cái máy ảnh mà chưa được dùng tới. Với cậu, đám ma cụ cố tổ chỉ là dịp được thoả mãn một sở thích, một thú tiêu khiển.

Ông Phán mọc sừng tuy là người trực tiếp gây ra cái chết của cụ cố nhưng lại tỏ ra rất hạnh phúc. Thậm chí ông còn “trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương”, ông cháu rể quý hoá này lộ rõ là một kẻ hám tiền bất nhân. Hắn không chỉ coi đồng tiền hơn hạnh phúc mà còn coi nó quan trọng hơn cả danh dự bản thân. Bởi vậy Phán Mọc Sừng mới hỉ hả và ngạc nhiên “không ngờ rằng đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”. Cái chết của cụ cố tổ chính là khởi đầu cho một cuộc làm ăn lớn của ông.

Với bà Văn Minh và ông Typn thì đám tang là cơ hội ngàn năm có một để lăng xê, quảng cáo cho các mốt quần áo của trào lưu Âu hoá, Chính vì vậy, khi chưa thấy cụ cố Hồng ra lệnh phát phục, Văn Minh vợ “sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời” còn “ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo cửa mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao”.

Như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lật tẩy nền nếp gia phong của giai cấp tư sản trong công cuộc “Âu hoá”, “Giải phóng”. Cái chết của cụ cố tổ trưởng là mất song lại được rất lớn; được tiền, được danh, được tình. Cái buồn hoá thành cái vui, đại tang trở thành đại hỷ. Nếu buồn trong lúc vui là bất nhã, vui trong lúc, buồn là bất nhân thì gia đình cụ cố Hồng là một gia đình đại bất nhân, bất nghĩa. Qua gia đình này, tác giả đã nói lên một sự thật cay đắng: lối sống Âu hóa đã làm băng hoại đạo đức, tấn công vào những thành trì tưởng kiên cố nhất là tình cha – con, vợ – chồng, ông – cháu.

Nếu ở cảnh tang gia, đám ma cụ cố tổ mới chỉ khiến cho một gia đình hạnh phúc thì ở cảnh đưa đám, không những gia đình mà còn cả xã hội cũng náo nức, tưng bừng theo.

Đám tang giống như một đám hội tưng bừng, rộn rã, “đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy”. Nó theo cả lối ta, Tây, Tàu, “có kiệu bát cống và lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú-dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối”. Đây là đám ma của nhà giàu, hơn nữa còn là của những kẻ hợm hĩnh, phô trương, lố lăng, kệch cỡm, thừa tiền nhưng thiếu học.

Trong cảnh đưa đám, Vũ Trọng Phụng đã thật tinh tường khi phát hiện ra mỗi người đều có những niềm vui riêng.

Min Đơ và Min Toa sung sướng tới cực điểm khi được “thuê giữ trật tự cho đám ma” vào giữa lúc “đang buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ” vì “không có ai đáng phạt mà phạt”. Cụ cố tổ nằm xuống đã giải quyết nạn thất nghiệp cho hai viên cảnh sát này nên cái hết lòng của chúng cũng chỉ là cái hết lòng vì tiền. Vũ Trọng Phụng đã lột trần bản chất của nghề cảnh sát trong xã hội thực dân. Thực chất nó chỉ có một chức năng duy nhất là nhăm nhăm phạt tiền của người khác mà thôi.

Trong đám ma này “ai cũng vui vẻ cả, trừ một Tuyết”. Một mình Tuyết đau khổ đến độ: “muốn tự tử được”, nhưng không phải vì người chết mà là đau khổ vì tình; “Tìm kiếm khắp mặt trong bọn người đi đưa đám ma cũng không thấy bạn trai đâu cả, Tuyết như bị kim châm vào lòng”. Đặc biệt, vẻ mặt và trang phục của cô có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt: “Hôm nay Tuyết mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-xê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xính để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Với nhân vật này, đám ma là dịp để thanh minh với thiên hạ về sự “trong trắng” của mình, nhưng ngay trong sự thanh minh đã lộ ra bản chất “hư hỏng có lí luận” của cô “gái mới tân thời”.

Giống như cụ cố Hồng, bạn của cụ đến đám tang không phải để chia buồn mà là để khoe râu và khoe huân chương: “Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, vân vân… trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”. Với ngôn ngữ trào phúng, mỉa mai, tác giả đã tạo dựng trên trang vãn những gương mặt nham nhở, kì quái, đầy tính chất biếm hoạ. Đặc biệt, “những ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”. Như vậy, cái đạo mạo bên ngoài của các vị đã bị Vũ Trọng Phụng lột trần bản chất.

Cái chết của cụ cố tổ làm cho nhiều người sung sướng lắm. Trong đó có cả sư cụ Tăng Phú: “Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng mà vênh váo ngồi trên một cái xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo, và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy”. Cái xấu xa chưa bao giờ lại lộ ra công khai, trơ tráo, không cần che đậy như thế. Đấng tu hành tưởng đã dứt bỏ được mộng trần thì giờ đây hiện nguyên hình là một kẻ hãnh tiến, thủ đoạn, xấu xa.

Sau khi khắc họa những gương mặt cá nhân, Vũ Trọng Phụng tiếp tục khắc họa những gương mặt tập thể. Hàng loạt những từ ngữ mâu thuẫn đã được tác giả sử dụng để làm bật lên chân dung các nhân vật: “Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám ma”, Những diễn viên quần chúng này vào vai rất tài tình. Họ đi đưa ma song không hề có một lời hỏi han tới người nằm xuống mà chỉ thì thào những câu “vui vẻ, ý nhị, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma”.

Thì ra, đâu chỉ có lũ con cháu cụ cố tổ bất hiếu mà cả cái xã hội đương thời cũng là một xã hội bất nhân, đạo đức giả. Đám ma đầy đủ tất cả, từ vòng hoa, câu đối, tới khăn xô mũ mấn song lại thiếu duy nhất một thứ, đó là tình thương, Thậm chí, tiếng khóc cuối cùng của ông Phán mọc sừng khép lại đoạn trích cũng chỉ làm cho điều này bộc lộ rõ thêm: “ông ta khóc quá, muốn lặng đi (…). Ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi..Hứt!… Hứt! …Hứt”. Tiếng khóc song lại gây cười. Ông khóc tới không thể đứng nổi để mà thực hiện tốt công cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”. Đây là nhân vật cuối cùng khép lại đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” và cũng là một trong những diễn viên xuất sắc. Hắn đánh lừa không chì người ngoài mà ngay tới Xuân là người trong cuộc cũng không hề biết.

Trong đám tang có kẻ vô tình song cũng có kẻ hữu ý vào vai kịch rất đạt. Cái đám tang này hiện lên là một sân khấu cuộc đời. Nó cũng là một tấn trò đời mà đám con cháu chính là diễn viên. Lũ con cháu thì bất nhân, xã hội thì vô đạo, tất cả đều chỉ vì tiền, vì tình, vì danh, vì lợi. Theo mạch truyện, sự băng hoại ấy ngày càng lan rộng hơn, từ gia đình mà ra cả xã hội. Cũng giống Balzac xưa viết về người chết sống là để nói người sống, đằng sau tiếng cười của Vũ Trọng Phụng, ta thấy được sự phẫn uất cao độ của tác giả đối với xã hội thượng lưu đương thời. Có thể xem đoạn trích là số đỏ thu nhỏ, trong đó tư tưởng và nghệ thuật của tác giả được thể hiện một cách đặc sắc.

Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – Mẫu số 16

Trước những năm 1945 xã hội Việt Nam lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc. Những giá trị văn hoá và nhân cách con người dường như bị bóp nghẹt trong thế giới “thượng lưu” rởm. Hạnh phúc của một tang gia của nhà văn Vũ Trọng Phụng là câu chuyện “cười ra nước mắt” phản ánh một cách chân thật và sinh động bối cảnh đất nước ta lúc bấy giờ. Bản chất lố lăng, đồi bại của giai cấp tư sản dần được bộc lộ dưới ngòi bút trào phúng và giọng văn hóm hỉnh của người nghệ sĩ tài hoa.

Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình nghèo khó. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với các tiểu thuyết và truyện ngắn, tuy nhiên lại đặc biệt thành công ở lĩnh vực phóng sự. Cuộc đời làm nghệ thuật tuy không dài nhưng ông đã để lại cho kho tàng văn học những tác phẩm có giá trị đặc sắc, tiêu biểu là các phóng sự: Cạm bẫy (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1939),… Các tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê (1936), Lấy nhau vì tình (1937),… Tiểu thuyết Số đỏ được đăng báo lần đầu năm 1936 cho đến năm 1938 thì được in ra thành sách. Đây là câu chuyện kể về Xuân hay còn được gọi với cái tên Xuân Tóc Đỏ, cuộc đời thơ ấu trải qua nhiều bất hạnh nhưng khi lớn lên với bản tính khôn lỏi của mình, hắn luôn tìm mọi cách để chuộc lợi cho bản thân, Xuân Tóc Đỏ luôn gặp “hên” bởi miệng lưỡi khéo léo nịnh bợ của mình. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tiểu thuyết số đỏ, trọng tâm xoay quanh đám tang của cụ cố tổ với những nghịch lý bi hài gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm về đạo đức con người.

Đoạn trích với nhan đề đã gây nhiều bất ngờ, ngạc nhiên, nó chứa đựng những mâu thuẫn trào phúng khơi gợi sự tò mò, thích thú cho người đọc. Lạ thay! Một tang gia sao lại có hạnh phúc? Vốn dĩ mỗi gia đình khi có người mất đều chìm trong buồn đau, thương tiếc, ấy vậy mà gia đình cụ Hồng lại tỏ ra vui vẻ, thậm chí là hạnh phúc. Chỉ bằng một nhan đề khái quát Vũ Trọng Phụng đã cho ta thấy tình huống truyện xuyên suốt tác phẩm. Một lũ con cháu bất hiếu, vô ơn, lố lăng và đồi bại đang mừng rỡ trước cái chết của cụ cố tổ. Tác giả đã khắc hoạ một hiện thực bi hài, thể hiện sự châm biếm mỉa mai trước tầng lớp “thượng lưu” tha hoá, thối nát.

Khi nghe tin cụ tổ mất mọi thành viên trong gia đình đều mang trong mình những niềm vui riêng, tuy nhiên có một niềm vui chung mà không ai có thể phủ nhận rằng: “Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”. Một gia đình tư sản chẳng có gì lạ khi sở hữu một khối tài sản khổng lồ, những đứa con cháu ngày ngày tìm đủ mưu kế chỉ mong thâu tóm hết cả cái gia tài đáng giá kia. Niềm vui trong tang gia dần đã được hé lộ nguyên nhân, sự thật phơi bày trước mắt khiến người đọc không khỏi xót xa. Tình thân giờ đây chẳng còn nghĩa lý gì khi lũ con cháu đã bị mờ mắt trước vật chất xa hoa, phù phiếm. Chúng thậm chí còn mong cụ cố tổ mau chết, sự ra đi đột ngột của ông cụ chính là do tên Xuân Tóc Đỏ gây ra, biết vậy nhưng cụ cố Hồng không những chẳng trách phạt mà còn cho rằng mình đang mang “một cái ơn to” đối với tên Xuân. Chi tiết truyện này một lần nữa khẳng định cái chết của cụ cố tổ là niềm vui vô cùng to lớn đối với đại gia đình tư sản này, mỗi ngày những kẻ này đều âm thầm mong chờ cái chết đó, chúng chờ đợi trong sự khó chịu bực bội rằng: Tại sao cụ cố tổ đã tám mươi, đã sống đủ rồi còn chưa chết cho con cháu được nhờ ?

Hoà vào niềm vui chung là sự rạng ngời của từng thành viên trong đại gia đình. Điển hình cho loại người hám danh lợi phù hoa, cụ cố Hồng – con trai cả trong nhà sướng rơn người khi nhắm nghiềm mắt nghĩ tới cảnh tượng được “Mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy,  vừa ho khạc vừa khóc mếu máo”. Là người con trai ruột thịt thế nhưng chẳng đau buồn trước sự ra đi của bố, cụ cố Hồng lại chỉ thích thú khi được đóng cảnh tiếc thương đưa tiễn cho bàn dân thiên hạ nhìn vào ngưỡng mộ “Úi giời, con trai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Vợ chồng ông Văn Minh cũng vui mừng không hề thua kém, cháu ruột lòng đầy tham vọng dã tâm chỉ mong di chúc kia sẽ nhanh đi vào thời kỳ thực hiện, cốt sao ông ta được chia phần nhiều là lòng đã thoả mãn chẳng còn thiết nghĩ gì đến cái chết của ông nội. Bà Văn Minh hớn hở ra mặt, đây là dịp bà ta được diện những bộ đồ sành điệu, táo nhất cho bàn dân thiên hạ ngắm nhìn mà ao ước. Cô Tuyết được dịp “mặc bộ y phục Ngây thơ” để chứng minh rằng mình không hư hỏng như lời thiên hạ đồn. Cậu tú Tân nóng lòng như sắp phát điên lên vì “đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Những thế hệ trẻ trong gia đình thượng lưu, được ăn học đầy đủ thế mà lại hành xử một cách thiếu hiểu biết, thiếu tình người và vô đạo đức. Chạm đáy của sự vô liêm sỉ và thiếu nhân cách đó là khi ông Phán – người chồng bị vợ cắm sừng mà lại cho rằng “giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”. Quả thật là một kẻ hám lợi đến nỗi vất bỏ tự trọng và tôn nghiêm của bản thân.

Đám ma của đại gia đình thượng lưu ấy có sức ảnh hưởng vô cùng lớn đến cả những người xung quanh. Dường như những kẻ xa lạ cũng đón nhận niềm vui đang lan toả ấy, hai tên cảnh sát đang thất nghiệp bỗng sướng như điên vì được thuê dẹp trật tự trong đám đông. Những ông bạn của cụ cố Hồng được dịp phô bày đầy những huân, huy chương trên ngực nào là “Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh”,… Những bà phu nhân quý phái cùng đám trai gái giới thượng lưu được dịp tán gẫu, hẹn hò, bình phẩm chê bai người này người kia. Xem ra đám tang nhưng lại được coi như một dịp hiếm có để tụ tập, nói cười, “chim chuột” nhau, đây là biểu hiện của một tầng lớp xã hội tha hoá về đạo đức trầm trọng, sự tuột dốc của không phanh của nhân cách con người.

Đám ma được tổ chức rùng beng không khác gì cái hội chợ, tiếng cười nói bàn tán của người đi đưa, tiếng kèn tiếng trống vang dội cả con đường. Đám ma được tổ chức theo lối “Ta, Tây, Tàu” kết hợp lố lăng hết sức , nào là “vòng hoa”, “ba trăm câu đối” và phải có đến “ba trăm người đi đưa”. Đây quả thực là một đám ma to tát đến nỗi Vũ Trọng Phụng phải chế nhạo chua xót rằng: “làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Giọng văn châm biếm sắc sảo của nhà văn giúp ta phần nào hình dung ra xã hội đạo đức giả đang tồn tại song song với lối sống Âu hoá “nửa mùa” của giới tư sản lúc bấy giờ.

Nhưng có lẽ đỉnh điểm của sự tha hoá là nằm ở cảnh hạ huyệt cho cụ cố tổ. Đây quả thực là một màn kịch siêu đẳng khi tất cả những người đưa tang đều là những diễn viên xuất sắc làm tròn vai diễn. Cậu tú Tân nhiệt tình bắt mọi người tạo dáng “hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng,…” cốt làm sao để cậu chụp được bức ảnh lúc hạ huyệt. Cụ Hồng “ho khạc mếu máo và ngất đi”, đặc biệt là màn khóc như “chết đi sống lại” của gã con rể quý hoá, vì lời hứa chia thêm gia tài của cụ cố Hồng mà lần này lão ra sức diễn cho đạt vai “ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã”. Tất cả những gì lũ người này thể hiện chỉ là đóng kịch giả dối, không hề có chút tình thương giữa đồng loại. Tác giả Vũ Trọng Phụng phê phán hiện thực xấu xa, đồi bại, giáng một đòn mạnh mẽ vào lối sống của tầng lớp tư sản “chó đểu, khốn nạn” khi ấy.

Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia đã bộc lộ rõ tài năng nghệ thuật sắc bén của Võ Trọng Phụng. Dưới ngòi bút trào phúng và những biện pháp tu từ ẩn dụ, nói ngược, nói quá,… nhà văn đã làm cho khung cảnh xã hội trở nên sống động như đời thực, ông tập trung khai thác những khía cạnh mâu thuẫn trong từng sự vật, hiện tượng từ đó lột tả rõ bản chất thật của chúng tạo nên tiếng cười sâu cay cho độc giả. Đám ma diễn ra như một tấn kịch bi hài, lố bịch của xã hội “thượng lưu” thành thị trước những năm Cách mạng tháng Tám thành công.

**************

Hy vọng với 16 bài Phân tích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng, các em đã hiểu rõ được tiếng cười trào phúng, mỉa mai của tác phẩm.

Đăng bởi: Mầm Non Ánh Dương

Chuyên mục: Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button