Giáo dục

Kiến thức trọng tâm bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Cùng Mầm Non Ánh Dương tìm hiểu kiến thức trọng tâm bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

Tóm tắt ngắn gọn chiếc thuyền ngoài xa

Nghệ sĩ Phùng đến vùng ven biển chụp ảnh lịch và ông chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong buổi sớm có sương mù. Chiếc thuyền vào bờ, cảnh tượng kinh ngạc đã diễn ra: người chồng đánh vợ dã man, đứa con vì bảo vệ mẹ đã đánh lại bố…Phùng xông vào can thiệp…Người đàn bà được mời đến toà án huyện, chánh án Đẩu khuyên bà ta bỏ chồng, chị ta xin không bỏ người chồng đó, chị kể về đời mình… Trong rất nhiều tấm ảnh về cảnh biển, tấm ảnh về chiếc thuyền ngoài xa được trưởng phòng chọn làm bộ lịch cho tháng 7 năm sau.

This post: Kiến thức trọng tâm bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Ý nghĩa nhan đề

Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh, của cuộc sống. Cuộc sống bấp bênh, dập dềnh, trôi nổi của người dân chài. Hình ảnh ẩn dụ, hình tượng nghệ thuật: đó là nghệ thuật, nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn cuộc đời thì ở rất gần, rất thực.

Tình huống truyện

Nghệ sĩ Phùng choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.

Người nghệ sĩ kinh ngạc khi chứng kiến người đàn ông đánh vợ dã man trên bãi biển.

→ Tình huống nhận thức, khám phá trước một hiện tượng đầy nghịch lí của cuộc sống.

Về tác giả Nguyễn Minh Châu

– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

– Đẩu năm 1950, ông gia nhập quân đội. Từ năm 1952 đến 1958, ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320. Năm 1962, ông vê’ cồng tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Vãn nghệ quân đội.

– Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

– Ông là một trong số những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

*Tác phẩm chính: Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Chiếc thuyền ngoài xa (1987).

Về nội dung kiến thức trọng tâm bài Chiếc thuyền ngoài xa 

Xuất xứ của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp cho nhà văn nhận ra đời sống con người cả ở những sự kiện bể nổi lẫn những khuất lấp trong bể sâu của nó, nhận ra cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên, may rủi đẩy bất trắc và khó lường hết của đời sống. Ông luôn day dứt về việc con người phải chịu đựng, phải chấp nhận những nghịch lí mà lẽ ra không đáng có trong một cuộc sống vốn đã tốt hơn.

Bố cục của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

– Chia thành hai đoạn:

+ Đoạn 1: Từ đầu đến “chiếc thuyền với gió đã biến mất”: Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

+ Đoạn 2: Còn lại: Câu chuyện của người đàn bà hàng chài.

Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ

– “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu… tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

+ Đôi mắt tinh tường “nhà nghề” của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp trời cho trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chưa từng bắt gặp. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc – đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Trước hình ảnh của chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã cảm nhận cái đẹp toàn bích, hài hoà, lãng mạn của cuộc đời, thấy tâm hổn mình như được thanh lọc, gột rửa.

– Cảm hứng triết lí vê’ nghệ thuật:

+ Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: Nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.

+ “Cái đẹp là đạo đức”: Khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

—» Cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện.

*Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là sự kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.

Phát hiện thứ hai đẩy nghịch lí của người nghệ sĩ nhiếp ảnh

 Điểm nhìn: Chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng —» gần, trực diện, rõ nét.

– Hình ảnh:

+ Người đàn bà: Cao lớn, với những đường nét thô kệch, mặt rỗ, vẻ mặt mệt mỏi (…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.

+ Người đàn ông: Tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đẵy vẻ độc dữ.

—» Hình ảnh xấu xí, xù xì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.

– Hành động:

+ Người chồng: Hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà —» hành động hung bạo, đã man, lạnh lùng như một con thú dữ.

+ Người vợ: Cam chịu đẩy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.

+ Đứa con: Giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.
—> Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng như muốn vỡ ra.

*Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.

Mối quan hệ giữa hai phát hiện 

Đây là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa nhà văn và cuộc đời

– Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.

– Đời sống con người vốn bê’ bộn, phức tạp. Hiện thực không giản đơn, toàn màu hồng mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối không dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo – chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư đa chiều hơn nữa.

Về các nhân vật trong truyện

a. Người đàn bà hàng chài và câu chuyện đời tự kể

– Hình dáng: Thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.

– Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:

+ Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi.

+ Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.

+ Van xin chính quyển đừng bắt chị bỏ người chổng vũ phu: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.

—» Kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá.

+ Hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng

—» Một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết. (Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng).

—» Câu hỏi đặt ra: Điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo?

– Câu chuyện cuộc đời:

+ Cách xưng hô: Con, quý toà – chị, các chú —»thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bê’ trên —» chủ động, bình đẳng, con người có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.

+ Nội dung câu chuyện:

• Xấu, buộc phải lấy anh làng chài.

• Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyên lại chật.

• Bất kể lúc nào khổ quá, chổng lại lôi ra đánh, ngay trên thuyền, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.

• Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”: Vì cần có một người đàn ông chèo lái và ở trên thuyền cũng có lúc vợ chổng con cái sống hòa thuận, vui vẻ.

• Giá đẻ ít đi -> biện minh cho hành động hung hăng của chổng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc về sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.

• Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông (…) những khi biển động.
—» Vì cần một trụ cột.

• Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình.
—» Vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.

• Cũng có lúc vợ chổng con cái sống hòa thuận, vui yẻ.
—» Cuộc sống với người đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.

* Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, người đọc thấy được:

– Số phận người đàn bà: Đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.

– Tính cách: Yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.

– Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.

b. Vê người đàn ông vũ phu

Cuộc sống đói nghèo đã biến “anh con trai” cục tính nhưng hiển lành xưa kia thành một người chồng vũ phu. Lão đàn ông có “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, hai con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên đau khổ cho người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy?

c. Chị em thằng Phác

BỊ đẩy vào tình thế khó xử khi ở trong hoàn cảnh ấy. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí. Cô bé là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ theo kiểu một cậu bé còn nhỏ, theo cái cách một đứa bé trai vùng biển. Nó “lặng đưa mấy ngón tay sờ lên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chẵng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Hình ảnh thằng Phác khiến người đọc cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.

d. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh

Vốn là người lính thường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra cảnh đẹp huyền ảo trên biển. Hơn bao giờ hết Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ rung động trước cái đẹp phải là một người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.

Cách xây dựng cốt truyện độc đáo

Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt người nghệ sĩ, rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chổng bước ra từ con thuỵển “thơ mộng”.

Tình huống đó được lặp lại lần nữa: Bên cạnh người đàn bà nhẫn nhục, chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của người cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm về người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội Đẩu và hiểu thêm chính mình.

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.

Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm

– Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hoá thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chần thật, giàu sức thuyết phục.

– Ngôn ngữ nhân vật: Được cá thể hóa, phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quý toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình; dịu dàng, xót xa khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, cục cằn,..

Giá trị nghệ thuật và nội dung của Chiếc thuyền ngoài xa

1. Nghệ thuật:

– Giọng điệu thay đổi linh hoạt

– Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập

– Sắc thái tư duy, chiêm nghiệm, tính triết nổi bật với câu văn miêu tả giàu trữ tình, nhịp chậm, ngữ điệu trầm, những so sánh mở ra liên tưởng, những lo âu, day dứt

– Lời văn giản dị, mộc mạc, nhiều dư vị

2. Nội dung:

Tác phẩm mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm

+ Cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

+ Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: Nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời – nghệ thuật vị nhân sinh.

+ Vấn đề về bạo lực gia đình, nghèo đói, thất học, đông con
=> Thể hiện cái nhìn thấy hiểu, trĩu nặng tình yêu thương và nỗi lo âu đối với con người của tác giả.

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)

Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button