Đề bài: Phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám
This post: Phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám
Phần 1: Dàn ý phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám
Xem chi tiết Dàn ý phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám tại đây
Phần 2: Bài văn mẫu Phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám
Bài làm:
Nam Cao, một nhà văn lớn và tài năng của văn học Việt Nam, gắn với cuộc đời của những trí thức nghèo trước cách mạng tháng Tám. Các tác phẩm của ông chính là những “thước phim bom tấn” về bi kịch cuộc đời con người bị tha hóa, “Đời thừa” là một tác phẩm tiêu biểu. Bi kịch trong “Đời thừa” được thể hiện qua “vai diễn” của nhân vật Hộ, đó không chỉ là bi kịch về gánh nặng cơm áo gạo tiền, mà còn là người nghệ sĩ phải chà đạp lên nghệ thuật chân chính, là người cha người chồng phải chà đạp lên chính nguyên tắc tình thương do mình đề ra.
“Văn sĩ Hộ” hay nhân vật Hộ trong tác phẩm là một nhà văn, người nghệ sĩ nghèo nhưng mang trong mình biết bao ước mơ, hoài bão lớn lao và có lí tưởng sống cao đẹp. Nhà văn Hộ luôn khao khát có cho mình những tác phẩm lớn, mang những giá trị vĩ đại, vượt thời gian, thế nhưng cái nghèo đói đã níu kéo và ràng buộc khao khát đó của Hộ. Lấy vợ vào là cuộc đời Hộ bị trói buộc và rơi vào hoàn cảnh khốn khổ, Hộ đành tạm gác lại hoài bão của mình để chăm lo cho gia đình nhưng sự mâu thuẫn trong lương tâm người làm văn và nỗi lo cơm áo đã biến Hộ trở thành một kẻ vũ phu, một vòng luẩn quẩn uống say – đánh đập vợ con – ân hận cứ thế xoay vần khiến anh rơi vào cuộc đời bế tắc, không lối thoát. Cuộc đời Hộ chính là bi kịch “đời thừa” – sống vô ích, vô ý nghĩa và vô tích sự, thừa thãi. Trước hết, bi kịch của Hộ chính là bi kịch của một nhà văn trẻ tài năng có tâm huyết với nghề, nuôi trong mình ước mơ hoài bão cao đẹp “gã trẻ tuổi say mê lí tưởng… khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất”, nghệ thuật đối với Hộ là tất cả, ngoài nghệ thuật chẳng còn gì đáng để bận tâm.
Trong xã hội thời bấy giờ, nét nổi bật khiến Hộ trở nên không tầm thường chính là sống có ích bằng chính văn chương tâm huyết của mình. Những nhà văn khác viết văn chỉ vì văn chương hoặc nghệ thuật nhưng với Hộ, anh viết văn vì mong tác phẩm của mình có ích cho xã hội, củng cố đạo đức cho đời “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”… Tất cả đó chỉ là suy nghĩ của Hộ, thực tế những ước mơ của Hộ đã bị gạt phắt đi bởi cơm áo tầm thường. Trong hoàn cảnh có vợ có con, phải lo cho gia đình, Hộ không thể chỉ nghĩ cho mình, anh phải kiếm tiền lo cơm áo cho vợ con, phải làm tròn trách nhiệm và lương tâm của mình. Trách nhiệm cao cả ấy đã đẩy Hộ đi đến con đường viết văn chương một cách nhạt nhẽo, nông cạn và thô thiển, khác xa với lí tưởng và tâm huyết của anh, chỉ cốt viết sao cho kiếm được nhiều tiền. Tinh thần của văn sĩ Hộ bị bức ép, dồn đến chân tường bởi cuộc sống, nhiều khi đọc lại văn của mình anh tự cảm thấy xấu hổ, trách mình là một thằng khốn nạn “là một kẻ bất lương”, “đê tiện”. Người nghệ sĩ như Hộ đã trở thành “đời thừa” trong xã hội, trong chính bản thân mình khi đánh mất tài năng và nhân cách của mình.
Bi kịch thứ hai của Hộ là bi kịch của một người có nhân cách, sống tình cảm nhưng lại chà đạp lên chính tình thương của mình. Vợ của Hộ là Từ, hai người đến với nhau trong hoàn cảnh éo le, Hộ đã cưu mang Từ cả đứa con đỏ hỏn của cô khi cô bị nhân tình bỏ rơi, nhận làm chồng và làm cha đứa trẻ. Hộ vừa cứu cuộc đời mẹ con Từ lại giữ danh dự cho cô, đây chính là tính nhân đạo, thương người, hơn thế anh còn giúp Từ lo ma chay cho mẹ già, với con cái anh cũng rất tình cảm “Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm”. Tâm huyết với văn chương vẫn cứ âm ỉ trong Hộ, anh chỉ cần có bén lửa là sẽ bùng lên, thế nhưng hoàn cảnh cuộc sống nghèo đói, vật lộn cơm áo cứ giày vò Hộ làm cho anh “nóng bỏng” lên. Hộ tìm đến rượu để “làm mát” và xoa dịu nhưng anh đã tìm sai đường, rượu chỉ khiến con người anh trở nên thô bạo, tầm thường cả trí tuệ và nhân cách, anh thậm chí đã từ bỏ lí tưởng văn chương của mình, đánh đuổi vợ con, sống ngược lại với tất cả những gì đã đề ra và từng cố gắng. Như vậy, với cả hai tư cách là người nghệ sĩ và người cha, người chồng, Hộ đều trở thành “đời thừa”, nỗi đau của Hộ là nỗi đau sống mà không ra sống, không thể sống với tâm huyết của mình cũng chẳng thể hết mình cho gia đình. Sống với nỗi đau ấy, Hộ nhận ra sự bất lực của chính mình, tự trách mình là một kẻ vô tích sự, sống thừa thãi trên cuộc đời.
Hai tấn bi kịch mà nhân vật Hộ trải qua chính là bi kịch mà lớp trí thức nghèo tiểu tư sản phải hứng chịu trong xã hội cũ. Tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao thực sự đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về bi kịch của văn sĩ Hộ, đồng thời cho người đọc thấu hiểu quan điểm văn chương nghệ thuật đắt giá, những giá trị nhân đạo sâu sắc mà trải qua bao thăng trầm thời gian vẫn giữ nguyên giá trị.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)