Đề bài: Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
This post: Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
I. Dàn ý Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
1. Mở bài
– Dẫn dắt vấn đề: Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất của con người và một khi đã trôi đi thì không bao giờ quay trở lại…
– Nêu vấn đề: Bài thơ Vội vàng đã thể hiện quan điểm sống tích cực của Xuân Diệu: Trân trọng thực tại, sống hết mình, sống trọn từng phút giây của cuộc đời.
2. Thân bài
a) Chân lí sống thể hiện qua nhan đề tác phẩm
– “Vội vàng”: Sống hết mình để tận hưởng vẻ đẹp của trời đất, sống mà không chần chừ để phí quá nhiều thời gian nhưng không có nghĩa là sống hời hợt bỏ qua nhiều thứ; sống là phải biết hưởng thụ và biết yêu thương.
b) Phân tích cụ thể tác phẩm
– “Tôi muốn… bay đi”: Khao khát mãnh liệt vượt qua giới hạn của con người: “tắt nắng, buộc gió” để giữ lại màu sắc và mùi hương, để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của đất trời.
– “Của ong bướm… môi gần: Xuân Diệu vẽ lên cả một thiên đường tràn ngập âm thanh và sắc màu…(Còn tiếp)
>> Xem Dàn ý Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu chi tiết tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
1. Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu, mẫu số 1:
Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất của đời người. Thật vậy, thanh xuân như mây trời và một khi đã trôi đi thì không bao giờ có thể trở lại. Có lẽ cũng vì hiểu được quy luật đắng cay ấy mà con người trở nên trân trọng thực tại, họ chọn cách sống vội để chạy đua với thời gian, sống trọn từng phút giây mà không bỏ lỡ. Và đó cũng là nội dung chủ đề được Xuân Diệu gửi gắm trong tác phẩm “Vội Vàng”.
Mới ngay từ nhan đề thôi chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào chân lí sống của Xuân Diệu. Đó là sống hết mình để tận hưởng vẻ đẹp của trời đất, sống mà không trần trừ để phí quá nhiều thời gian. Thế nhưng, vội vàng cũng không có nghĩa là sống hời hợt bỏ qua nhiều thứ, sống là phải biết hưởng thụ và biết yêu thương.
Và cái khao khát sống ấy cũng rực cháy ngay từ những câu mở đầu tác phẩm:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Khao khát vượt qua cả giới hạn của một con người. Đó là khao khát tắt nắng, buộc gió. Chỉ vì muốn giữ lại màu sắc và mùi hương mà con người nhỏ bé kia lại dám mơ ước thay đổi cả vũ trụ, thay đổi cả quy luật của tự nhiên để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của đất trời. Thế nhưng đó lại là những mơ ước không tưởng mà chẳng con người nào có thể làm được, không ai có thể tắt nắng đi và buộc gió lại vì chúng là vô hình, cũng như thứ thanh xuân vô hình mà người nghệ sĩ đang cố gắng chạy đua với thời gian.
Những bài Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu hay nhất
Rồi với những câu thơ tiếp theo, ông đã vẽ lên cả một thiên đường ngập tràn âm thanh và màu sắc:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Đó chẳng phải là trần gian với chút cỏ cây hoa lá mà dường như với con người tràn ngập nhiệt huyết tuổi trẻ nó lại trở nên thật tuyệt diệu làm sao. Đây là cuộc sống nơi thiên đường rực rỡ màu sắc và ánh sáng, là nơi mà thần tiên thường hay du ngoạn đến. Không gian trong bức tranh ngập tràn màu sắc, đó là màu xanh của cỏ cây, màu xanh của sự sống đang ở độ căng tràn nhất. Và ở trong không gian thơ mộng ấy lại được náo nhiệt, vui tươi hơn nhờ khúc hát mời gọi của các loài chim, âm thanh, ánh sáng, màu sắc, tất cả ngọn nguồn của sự sống đều tụ tập về một nơi để phô diễn ra cái vẻ đẹp của thiên đường trên nhân gian và rồi, khi người nghệ sĩ đa cảm ấy bắt gặp được mỹ cảnh lộng lẫy thì trong lòng lại nao nức, bồn chồn muốn sống hết mình để tận hưởng được vẻ đẹp của trần gian. Khát khao được tận hưởng cũng được bộc lộ qua điệp từ “này đây”, nó như một lời mời gọi không thể chối từ dành cho kẻ si tình trót để quên trái tim khi ghé qua nhân thế. Và chưa dừng lại ở đó, khu vườn nhân gian vẫn còn những điều cuốn hút hơn đang chờ đợi du khách mỗi sáng, niềm vui sẽ đến với mọi người.
Mùa xuân là mùa đẹp nhất của một năm, đó là khoảng thời gian trăm hoa khoe sắc, là khi mầm non bật tung khỏi lớp vỏ sần sùi của cành cây để dâng lên đất trời hơi thở của sự sống. Mùa xuân không còn cái lạnh giá, không còn cái vẻ lạnh lẽo và u ám của những ngày đông giá lạnh. Vào thời điểm khởi đầu của một năm cũng là khi sự sống được bắt đầu, có chút se se lạnh cùng chút mưa phùn thoang thoảng hương cỏ cây khiến người ta muốn thả hồn mình vào để ngắm nhìn, để thưởng thức. Thật vậy mùa xuân là mùa của sự sống và cái căng mọng, tràn trề của sự sống ấy được người nghệ sĩ cảm nhận là “cặp môi gần”. Có thể đó là đôi bờ môi căng mọng thơm mướt và tràn đầy sự sống của người con gái đôi mươi, đó là tình yêu, là hy vọng và là thứ mà không ai có thể chối từ. Đôi môi của sự sống ấy khiến cho người du khách thêm yêu và trân trọng cuộc đời, trân trọng thanh xuân của mình. Còn trẻ là còn tất cả, khi ấy ta có thể tự tay làm bất cứ điều gì, còn trẻ là còn nhiệt huyết và đam mê, tuổi trẻ chúng ta không ngại khó ngại khổ, không bị giới hạn bởi tuổi tác và sức khỏe, chỉ khi trẻ chúng ta mới theo đuổi được đam mê và mơ ước của mình. Nhưng càng hiểu giá trị của tuổi trẻ thì người nghệ sĩ càng vội vã sống, ông không muốn bỏ lỡ một giây phút nào của cuộc đời con người đầy ngắn ngủi và không biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày mai ấy.
Người ta thường nói càng trân trọng càng sợ mất, khi con người ta nhận ra được nhiều điều hơn cũng là lúc họ thay đổi cách sống:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Cuộc sống là không ngừng mất đi, thật vậy chẳng có gì có thể nói trước trong cuộc sống. Có lẽ hiểu được quy luật của cuộc đời ngắn ngủi ấy nên người nghệ sĩ vừa mừng vừa lo, ông vui sướng vì được cảm nhận và được thưởng thức vẻ đẹp của đất trời thế nhưng sau cùng thì con người rồi cũng sẽ có một lúc nào đó già đi và không thể tự làm được những điều mình muốn hoặc chẳng may người ta mắc một căn bệnh quái ác nào đó cướp đi tính mạng mà chẳng hề hay biết. Đó là những kết cục buồn và đáng tiếc nhất của một đời người, không ai được chọn nơi mình sinh ra nhưng ta có thể chọn cách sống cho bản thân mình và rồi ông chọn cho mình cách sống vội vã, sống như thể ngày mai không còn được sống để ôm trọn vẻ đẹp của đất trời. Ông chạy đua cùng với thời gian, sống nhưng vẫn còn bâng khuâng lo lắng cho tuổi trẻ ngắn ngủi của mình. Trời đất là vô hạn còn đời người chỉ thoáng chốc ngắn ngủi, mỗi mùa xuân đến cũng là khi con người thêm một tuổi và điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm đi một năm tuổi trẻ, vậy nên mặc dù vui sướng tận hưởng thời khắc xuân xanh căng tràn của cuộc đời nhưng ông cũng không ngừng lo lắng. Ông lại hoài niệm về cuộc đời, về những thứ mà có thể mình sẽ không thưởng thức hết được, nỗi buồn của người nghệ sĩ thấm vào cảnh vật khiến chúng man mác một nỗi buồn chia phôi. Là cơn gió xinh vô tư bay nhảy trên không trung nay cũng biết buồn vì không được tiếp tục ở lại, vì nó phải đi đến một nơi xa nào đó. Là chú chim đang cất tiếng ca nay không hót nữa vì có lẽ loài vật cũng cảm nhận được sự thay đổi của thời gian, cũng biết được thời khắc đang trôi đi không trở lại của đất trời.
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Càng trân trọng, càng không muốn để mất thì con người ta lại càng trở nên vội vã. Dường như lúc ấy cả lí trí và con tim đều lên tiếng mách bảo người nghệ phải phải sống hết mình, chỉ có như thế khi mọi thứ qua đi mới không còn gì hối tiếc. Vậy là cái khát khao ấy lại bùng lên dữ dội, nó khiến người nghệ sĩ chìm ngập trong khát vọng của chính mình, sống quên mình với tình yêu và khát vọng. thưởng thức trọn vẹn cho đến khi no nê đã đầy cảnh sắc của nhân gian. Nhưng khát khao của con người có bao giờ dừng lại, và rồi đỉnh điểm của khát vọng ấy là “cắn” vào mùa xuân đang tràn ngập sự sống. Xuân Hồng muốn cảm nhận vị ngọt của đất trời, muốn níu giữ để không có gì có thể trôi đi được, để ông còn được sống mãi với thanh xuân của đời mình.
Khép lại tác phẩm ta chợt thấy một tâm hồn đầy nhiệt huyết và đam mê, đó là một người nghệ sĩ nhưng thấm nhuần triết lí nhân sinh, cũng vì thế mà ông quyết tâm sống hết mình để thưởng thức vẻ đẹp của cuộc sống. Sống để yêu thương và say trong hương vị cuộc sống. Đó cách sống mà người nghệ sĩ chọn để tận hưởng hết thanh xuân của đời mình, và đó cũng là tư tưởng đúng đắn mà thanh niên chúng ta ngày nay phải học tập để sống sao cho ý nghĩa, sống để hòa nhập và cống hiến, cháy hết với đam mê của mình.
——————HẾT BÀI 1—————–
Các em vừa tìm hiểu về quan niệm sống vội của nhà thơ Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, để hiểu được quan niệm sống vội vàng cùng tình yêu tha thiết đối với sự sống trần thế của người thi sĩ, các em có thể tham khảo những bài văn mẫu đặc sắc khác như: Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Phân tích quan niệm sống “vội vàng” của Xuân Diệu, Phân tích quan điểm yêu của Xuân Diệu qua Vội vàng, Phân tích đoạn thơ sau trong bài Vội vàng: “Xuân đang tới… tiễn biệt”.
2. Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu, mẫu số 2:
Xuân Diệu là một nhà thơ xuất sắc, có thể ví ông là một đại biểu xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Làm thơ về mùa xuân vốn là truyền thống của thơ ca Việt Nam và trên cả thế giới, bởi mùa xuân hội tụ rất nhiều vẻ đẹp tinh tế tràn đầy sức sống và trong mỗi một bài thơ mùa xuân luôn hiện lên những vẻ đẹp rất riêng, khơi gợi những cảm xúc tích cực trong tâm hồn người đọc. Đặc biệt trong phong trào thơ mới giai đoạn 1932 – 1945, mùa xuân được nhiều tác giả ưu ái đưa vào làm chủ đề của tác phẩm hơn cả, ví như Hàn mặc Tử với Mùa xuân chín, Nguyễn Bính với Mùa xuân xanh, hay một nét xuân đầy hoài niệm, tiếc nuối của Vũ Đình Liên với Ông đồ. Và Xuân Diệu đã nổi lên như một hiện tượng trong một loạt thơ xuân với Vội vàng, với những nét rất riêng rất, mới trong cái hồn thơ của một “nhà thơ mới nhất trong tất cả các nhà thơ mới”.
Vội vàng nằm trong tập Thơ Thơ, tập thơ đầu tay của Xuân Diệu khi xuất hiện đã ngay lập tức vinh danh tên tuổi của Xuân Diệu như một đại biểu xuất sắc của của phong trào thơ mới. Vội vàng được đánh giá là bài thơ xuất sắc nhất của tập Thơ thơ, mà giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có một lời nhận xét rất hay và chính xác dành cho nội dung của bài thơ cũng như nội dung xuyên suốt toàn tập Thơ Thơ: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống”. Đây cũng chính là hai đặc điểm của phong cách thơ Xuân Diệu, làm nên giá trị trong những tác phẩm của ông, đồng thời góp phần trọng yếu làm nên tên tuổi của Xuân Diệu giữa một rừng thơ mới đầy màu sắc. Ta có thể thấy hiện rõ trong thơ ông một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, tạo nên những cảm xúc bề nổi đầy đắm say và nồng nàn, thì những quan niệm nhân sinh mới mẻ trong thơ ông lại mang đến cái trích luận là phần sâu, là mạch ngầm để khơi gợi nên những cảm xúc rất riêng của Xuân Diệu mà không nhà thơ nào có được, chính những yếu tố này đã khiến thơ Xuân Diệu đi một cách dễ dàng vào tâm hồn người đọc.
Hướng dẫn Phân tích Vội vàng để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
Trong 13 câu thơ đầu tiên, mỗi một câu thơ đều thể hiện tinh thần yêu cuộc sống thiết tha và rạo rực của nhà thơ. Trong đó, 4 câu thơ ngũ ngôn đầu tiên lại như hoàn toàn tách biệt với lối thơ của cả bài:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Dễ dàng nhận thấy ở đây tác giả đã sử dụng một biện pháp nghệ thuật rất quen thuộc đó là điệp cấu trúc “Tôi muốn…/Cho…”, điều ấy nhằm nhấn mạnh khao khát tha thiết và cháy bỏng trong tâm hồn người nghệ sĩ, muốn “tắt nắng” để giữ màu cho cuộc sống, muốn “buộc gió” để lưu hương cho cuộc đời. Đây là những khao khát đẹp đẽ, nhà thơ mong muốn được lưu giữ lại những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc sống, khoảnh khắc hiện tại, khoảnh khắc mùa xuân vương đầy trong màu gió, màu nắng, bằng cách chặn đứng bước đi của thời gian. Điệp từ “đừng” khiến người ta liên tưởng đến việc Xuân Diệu đang cầu xin, một lời cầu xin đầy khẩn thiết trước quyền năng vô hạn của tạo hóa. Chỉ qua 4 dòng thơ đầu tiên đã cảm nhận được cái “tôi” trữ tình của tác giả hiện lên thật độc đáo, đó là sự giao hòa giữa một cái tôi của người chỉ huy đầy ngông cuồng và táo bạo, đó là cái tôi đầy ngộ nghĩnh và dễ thương như một đứa trẻ hồn nhiên và yêu đời. Nhưng tất cả đều chỉ hướng đến một mục đích duy nhất đó là nỗi khát khao chặn lại bước đi của thời gian để lưu giữ lại những khoảnh khắc xinh đẹp của hiện tại và đó chính là biểu hiện đầy cụ thể của tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say trong tâm hồn Xuân Diệu.
“Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
Có thể xem 8 câu thơ tiếp theo là lời giải thích đầy lãng mạn cho cái khao khát của nhà thơ trong bốn câu thơ đầu tiên. Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp điệp cấu trúc “Của…/này đây…” nhưng ở đây tác giả còn kết hợp cả việc đảo ngược vị trí của cấu trúc này và biện pháp liệt kê, khiến cho từng câu thơ có sự luyến láy, có vần nhịp thật điệu đà và êm ái, đồng thời phơi bày ra những vẻ đẹp không tả xiết của cõi trần gian, và dường như chỉ cần với tay ra là đã có thể chạm đến. Xuân Diệu đã dùng tất cả các giác quan của mình để cảm nhận về mùa xuân, đây cũng chính là tiêu chí của nhà thơ Xuân Diệu được lặp lại trong tất cả các bài thơ khác, sống toàn tâm toàn trí, toàn ý, toàn hồn, sống toàn thân và thức tỉnh mọi giác quan. Và chính những tiêu chí ấy nên Xuân Diệu đã cảm nhận được một cách toàn vẹn nhất hương vị, thanh sắc của mùa xuân. Trong câu “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”, ta cảm nhận được vị ngọt của mật ong thanh khiết, “Này đây hoa của đồng nội xanh rì”, ở đây có hương thơm và màu sắc, đến câu “Này đây lá của cành tơ phơ phất;” ta lại mường tượng ra cái dáng hình lả lướt mềm mại của lá trên cành non đang lay động theo chiều gió thổi, ta cảm nhận được sự tự do và vui vầy trước cảnh xuân ấy.
Tiếp đến ta lại lắng nghe được âm thanh của yến anh trong “khúc tình si”, một thứ âm thanh đầy tình tứ, gợi cảm, rồi “ánh sáng chớp hàng mi”, thứ ánh sáng của bình minh ngày xuân tươi đẹp, rực rỡ như rèm mi mềm mại của người con gái. Tất cả khiến ta liên tưởng đến một bữa tiệc rất thịnh soạn, rất đầy đủ đang bày ra, mang niềm vui đến mọi người chỉ cần chúng ta chịu mở lòng. Đây là quan điểm thật mới mẻ và hiện đại của Xuân Diệu, mà chưa từng thấy trong văn thơ truyền thống, đối với ông cuộc sống xung quanh chúng ta đẹp lắm, đẹp vô cùng, ông không đi tìm những cái đẹp nào đó ở nơi cao xa mà khai thác ngay những gì có trong cuộc sống, những gì gần gũi thân thiện với chúng ta nhất. Nếu so sánh với các tác giả thời trung đại và các nhà thơ cùng thời với Xuân Diệu chúng ta sẽ thấy rằng Xuân Diệu có quan điểm hết sức khác biệt, nếu Phật giáo cho rằng cuộc đời của mỗi người là kiếp sống bị đày đọa trong vòng quay sinh lão bệnh tử và con người ta sinh ra ở cõi đời này là để khổ đau, thế nên ảnh hưởng bởi quan điểm này nên rất nhiều nhà thơ trung đại muốn thể hiện cái quan niệm lánh đời ở ẩn trong các tác phẩm của mình, để tìm được sự bình an cho tâm hồn để đi gần đến với chốn niết bàn, không sầu với thế sự. Tương tự, các nhà thơ mới trong giai đoạn 1932-1945 cũng mang cái tư tưởng chối bỏ, quay lưng với thực tại và cho rằng cái thực tại này không đáng sống như Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, hay Chế Lan Viên, Tản Đà… luôn tìm về với những cái vẻ đẹp của quá khứ mà bẵng quên đi cái vẻ đẹp thực tại. Chẳng thế nhà phê bình Hoài Thanh đã có những nhận xét rất thú vị mà ta lọc được một số ý như sau: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên”, thì trả lại ta là “động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ” giữa buổi hoang mang và bế tắc như vậy thì Xuân Diệu chính là người đã đưa ra giải pháp “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”, bởi suy cho cùng hạ giới là nơi tươi đẹp nhất.
Tuy nhiên sẽ còn thiếu nếu ta chỉ nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, bởi trong thơ của Xuân Diệu chẳng thế nào thiếu vắng vẻ đẹp của tình yêu, một vẻ đẹp được viết bởi “ông hoàng thơ tình”. Với Xuân Diệu, cặp mắt xanh non trẻ trung, cặp mắt của một người chuyên viết thơ tình vườn xuân đã biến thành vườn yêu, vườn tình, vườn của ái ân hạnh phúc. Sự vật nào cũng có đôi có cặp, ong bướm cũng thành đôi thành cặp đắm chìm trong “tuần tháng mật” hạnh phúc, hoa hạnh phúc khoe sắc “trong đồng nội xanh rì”, một môi trường lý tưởng, rồi thì lá của cành tơ phơ phất, yến đi cùng với anh để “hát khúc tình si” đầy mê đắm, ngọt ngào. Xuân Diệu còn liên tưởng ánh sáng bình minh xuân như gương mặt của một cô gái đẹp mang rèm mi ánh sáng đầy trữ tình. Cuối cùng nhà thơ đã khái quát lại tất cả những vẻ đẹp ấy bằng câu thơ:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Một hình ảnh so sánh rất lạ, tưởng như không có mối liên quan và khập khiễng, Xuân Diệu tuân thủ phép tương giao, ông cho rằng vạn vật đều có thể liên quan nhất định. Xét thấy “cặp môi gần” là đôi môi của người con gái đang thời xuân sắc căng mọng và gợi cảm, điều ấy cũng tương tự như tháng giêng, tháng của mùa xuân, cũng sung sức tràn đầy nhựa sống như vậy, và kết lại hai so sánh này lại hoàn toàn có lý và tạo nên sự gợi cảm cho bài thơ. Ngoài ra trong câu thơ Xuân Diệu còn có sự chuyển đổi cảm giác rất độc đáo, từ một “tháng giêng” tháng của mùa xuân vốn vô hình trừu tượng thành một thực thể hữu hình, cụ thể là “cặp môi gần”, thông qua vị giác, nhà thơ cảm thấy “ngon”. Chúng ta có thể hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân một cách rõ nét hơn thông qua quan điểm thẩm mỹ mới mẻ và tiến bộ của mình, khác với quan điểm cũ thiên nhiên là chuẩn điểm của cái đẹp, thì với Xuân Diệu cái đẹp thực sự phải nằm ở chính con người.
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Và đang trong cái niềm tha thiết mê say ấy thì Xuân Diệu bỗng khựng lại, cái cảm xúc và suy tư của ông được thể hiện bởi một dấu chấm giữa dòng thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu “sung sướng” và “vội vàng”. Lúc này đây Xuân Diệu đã có sự nhận thức về sự chảy trôi của thời gian, nhà thơ vội vàng và sự vội vàng ấy được thể hiện qua câu “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, ông không chờ nắng hạ để tiếc xuân mà ông tiếc ngay giữa mùa xuân. Nhà văn đã có những suy tư về bước đi của thời gian, là thái độ sống khi nhận ra rằng thời gian không phải là tuần hoàn mà thời gian là sự tuyến tính là một đi không trở lại, chính quan niệm nhân sinh mới này đã mở ra những vần thơ tiếp theo của bài.
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Ở đoạn thơ này, tác giả đang diễn giải cho cái lý do mình “vội vàng” đó là một quan niệm mới, nhận thức mới của Xuân Diệu về thời gian. Nếu trong quan niệm cũ thì thời gian là tuần hoàn, còn ở tác giả thời gian là tuyến tính, chỉ có một chiều cứ đi mãi mà không trở về, xuân này khác xuân xưa, chính vì thế tâm thế của con người không thể ung dung nhàn tản mà ở đó là sự vội vã tận hưởng, bởi nếu đã qua đi thì không bao giờ có lại được.
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
Đây là hai câu thơ thể hiện quan niệm thời gian tuyến tính thật rõ nét của nhà thơ, nhịp ngắt tuần tự trong hai câu thơ đã diễn tả bước đi của thời gian chậm rãi và lạnh lùng, một lần nữa biện pháp điệp cấu trúc lại được sử dụng trong kiểu câu định nghĩa “nghĩa là…”, nhằm nhấn mạnh quy luật bước đi của thời gian. Các cặp từ đối lập “đang tới – đang qua”, “còn non – sẽ già”, muốn diễn tả sự vận hành tuần tự của thời gian, không ai có thể ngăn lại được, một đi không trở lại nữa. Đây là quan niệm đầy ám ảnh về thời gian của Xuân Diệu, sợ hãi thời gian trôi qua mất, xuân phai tàn.
Ở 7 câu tiếp Xuân Diệu tạo ra một cái giọng điệu tranh luận, để chứng minh cho cái quan điểm về thời gian của mình. Dùng kiểu câu định nghĩa “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất”, nhấn mạnh cái tác động tiêu cực của thời gian đến đời người. Tác giả dựng lên những cặp đối lập “lòng tôi rộng / lượng trời chật”, “xuân vẫn tuần hoàn / tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, “còn trời đất / chẳng còn tôi mãi”, để tiếp tục chứng minh cái sự tiêu cực, đó là sự khắt khe của trời đất, của tạo hóa, thể hiện sự hữu hạn của đời người trong sự vô hạn của vũ trụ. Sự tiếc nuối được thể hiện một các rõ nét trong cảm giác buâng khuâng buồn bã của tác giả, tiếc lắm “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,” cảm giác của tác giả chuyển từ khứu giác sang vị giác, đây là một câu thơ rất đặc biệt, ở đây có mùi vị của sự đau xót, có hình dáng của vết thương trong lòng đau xót, bởi:
“Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”
Vạn vật trong vũ trụ đều phải chịu cảnh chia ly, buồn bã bởi dòng chảy vô tình của thời gian, Xuân Diệu đã nhận ra sự bào mòn khủng khiếp của thời gian. Khép lại đoạn thơ “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”, đây là sự nuối tiếc đầy sâu sắc của tác giả, tiếc phần đời đã trôi qua của mình, tiếc những thứ mình đã tận hưởng và đó chính là tiền đề cho những khao khát cháy bỏng ở phần cuối của bài thơ.
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Sau khi thể hiện những quan điểm mới.mẻ của mình về thời gian về tuổi trẻ và tình yêu, Xuân Diệu đã tự đề ra cho mình một giải pháp để thoát khỏi những cái ràng buộc và tiếc nuối ấy. Ông không muốn sống lãng phí một phút giây tuổi trẻ nào, chính vì thế, cái khao khát được sống được tận hưởng của nhà thơ bộc lộ rất rõ ràng trong khổ thơ cuối. Xuân Diệu liên tiếp dùng điệp ngữ “Ta muốn” thể hiện một cảm xúc vội vã, dồn dập, đọc thơ mà cứ ngỡ nhà thơ đang chạy đua với thời gian chứ không đơn thuần là ước muốn bình thường. Đại nhân xưng “Ta” thể hiện một cái tôi đầy nồng nàn, đắm say và cũng điên cuồng của một nhà thơ ham sống, ham tận hưởng đến mãnh liệt. Ta có thể thấy điều đó qua những cái khao khát lạ lùng của nhà thơ nào là muốn “riết mây đưa và gió lượn”, rồi thì muốn say sưa bay bổng cùng cánh bướm với tình yêu, rồi muốn thâu tóm tất cả chỉ bằng một nụ hôn ngọt ngào, đắm say. Dường như tất cả những gì tác giả muốn đều là những vẻ đẹp thật xuân sắc và cực kỳ khó nắm bắt, nhưng với một hồn thơ vội vã và khát khao cháy bỏng, Xuân Diệu lại có lòng ôm chặt lấy tất cả để tận hưởng một mình cho thỏa lòng khao khát. Những vần thơ thật nồng nàn, đôi khi có cảm giác phồn thực đó của Xuân Diệu đã đưa ta đến với thế giới của sự mê đắm, trữ tình đầy lãng mạn và tự do tư tại biết mấy.
Câu thơ “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi” đầy táo bạo, mới lạ, thể hiện cái “tôi” thật điên cuồng sâu trong tâm hồn của tác giả, động từ “cắn” mang đến cho ta niềm khao khát tột độ, gợi tả những cung bậc cảm xúc có vẻ như điên cuồng của một hồn thơ thật vội vàng, nếu như không nhanh thì sợ sẽ vụt mất. Xuân Diệu đã ý thức rất rõ ràng về quy luật của thời gian và tạo hóa nên trong quan niệm sống của ông, luôn mong muốn và khao khát tận hưởng hết những gì ở thực tại, sống cháy hết mình cho hiện tại và luôn đau đáu một nỗi ám ảnh khi thời gian qua mau mà theo không kịp cái nhịp điệu ấy của vũ trụ, chính vì vậy, ông hằng có một cái khao khát điên cuồng, được chặn đứng bước đi của thời gian.
Có thể thấy thơ Xuân Diệu mà tiêu biểu là Vội vàng luôn tồn tại những quan điểm hết sức mới lạ và độc đáo mà chưa nhà thơ nào dám bước ra khỏi vùng an toàn để khai thác, đó là quan niệm về thời gian, về cuộc sống và về tình yêu. Đọc thơ ông ta bỗng nhận ra được những lẽ sống mới của tuổi trẻ, sống sao cho đúng là sống, đừng phí hoài thanh xuân vì những suy nghĩ nhàn tản hay trốn tránh mà hãy hưởng thụ lấy cái đẹp đẽ hiện tại luôn có mặt ở xung quanh chúng ta, đừng để cuộc sống là nhiều của nhiều lần tiếc nuối.
———————–HẾT———————
Trong chương trình Ngữ văn lớp 12, các em đã được học rất nhiều tác phẩm thơ trữ tình đặc sắc từ những gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới của Việt Nam. Bên cạnh bài thơ Vội vàng, các em có thể tìm hiểu những tác phẩm thơ khác qua việc tham khảo: Phân tích Tràng giang (Huy Cận), Phân tích bức tranh quê và tấm lòng yêu đời của Hàn Mặc Tử trong Đây thôn Vĩ Dạ, Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích bài thơ Chiều tối.
Bản quyền bài viết thuộc trường Mầm Non Ánh Dương. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường Mầm Non Ánh Dương (mamnonanhduongvt.edu.vn)
Source: Mamnonanhduongvt.edu.vn
Category: Giáo dục